Nghệ
thuật nghi binh trong Chiến dịch Tây Nguyên
Trong
cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975, Chiến dịch Tây Nguyên có ý
nghĩa hết sức đặc biệt. Đó là chiến dịch mở màn của cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy của quân và dân ta, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ ngụy quân ngụy
quyền Sài Gòn, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đến thắng
lợi hoàn toàn.
Chiến
dịch Tây Nguyên cũng là chiến dịch thể hiện sự tài tình và độc đáo của nghệ
thuật quân sự Việt Nam, đó là nghệ thuật tổ chức nghi binh, lừa địch, giấu đi
hướng tiến công chủ yếu, đánh vào nơi địch sơ hở nhất, đẩy địch vào thế bị động
trên chiến trường, tạo ra thế và lực để ta giải phóng hoàn toàn các tỉnh Tây
Nguyên, làm bàn đạp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đi đến thắng lợi.
Đầu
năm 1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch chiến
lược chính trên chiến trường Tây Nguyên. Chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy
Trung ương là đánh địch ở nam Tây Nguyên, giải phóng Buôn Ma Thuột, tiến công
tỉnh lỵ Phú Bổn (Cheo Reo) và phát triển xuống đồng bằng khu 5. Ngày 5-2-1975,
Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên được thành lập do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm
Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm
chính uỷ, Thiếu tướng Vũ Lăng và các đại
tá Phan Hàm, Nguyễn Năng,
Nguyễn Lang làm Phó tư lệnh.
Ngay
sau khi được thành lập, Bộ Tư lệnh Mặt trận đã xác định: Mục tiêu then chốt của
chiến dịch là Buôn Ma Thuột. Để tạo điều kiện cô lập và đánh chiếm Buôn Ma
Thuột nhanh nhất, cần phải lên kế hoạch nghi binh, lừa địch. Kế hoạch do Anh
hùng lực lượng vũ trang Khuất Duy Tiến, nguyên Trưởng phòng Tác chiến Mặt trận
Tây Nguyên chủ trì soạn thảo. Ngày 25-2-1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên
đã họp, thông qua phương án tiến công Buôn Ma Thuột, trong đó công tác nghi
binh chiến dịch được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Khi
đó, trên địa bàn Tây Nguyên, địch có 1 sư đoàn bộ binh (Sư đoàn 23) và 7 liên
đoàn biệt động quân (các đơn vị này có quân số tương đương 10 trung đoàn), 36
tiểu đoàn bảo an; 8 tiểu đoàn pháo binh; 4 thiết đoàn tăng - thiết giáp; 1 phi
đoàn máy bay chiến đấu; 2 phi đoàn trực thăng; 1 phi đoàn vận tải, trinh sát và
huấn luyện. Lực lượng địch chủ yếu tập trung ở Buôn Ma Thuột - nơi đặt Tổng
hành dinh của Quân đoàn II - Quân khu II Ngụy Sài gòn.
Về
phía ta, lực lượng ở Tây Nguyên gồm 4 sư đoàn bộ binh (Sư đoàn 2, Sư đoàn 10,
Sư đoàn 320 và Sư đoàn 968 Trường Sơn), 4 trung đoàn độc lập, 1 trung đoàn đặc
công (198); 1 trung đoàn xe tăng (273); 2 trung đoàn pháo binh và 3 trung đoàn
phòng không. Các đơn vị của ta - nhất là Sư đoàn 10, Sư đoàn 320 - đang hoạt
động ở các tỉnh bắc Tây Nguyên (Kon Tum và Gia Lai).
So
sánh lực lượng cho thấy: Về binh lực, hai bên tương đương nhau, nhưng địch có
hỏa lực không quân, pháo binh và xe tăng áp đảo lực lượng của ta. Lực lượng
địch chủ yếu tập trung tại Buôn Ma Thuột. Lực lượng của ta chủ yếu tập trung
tại Peiku và Gia Lai - phía bắc Tây Nguyên.
Qua các nguồn tin tình báo, địch nhận định ta
sẽ đánh Tây Nguyên. Cụ thể là Kon Tum và Pleiku (bắc Tây Nguyên), vì nếu đánh
xuống phía nam, ta sẽ phải di chuyển khoảng 300 km đường rừng, nhiều sông suối.
Việc hành quân, di chuyển vũ khí, thiết bị lớn xuống sẽ rất khó khăn.
“Tương
kế tựu kế”, Ta xây dựng kế hoạch nghi binh đánh lừa, làm cho địch lầm tưởng ta
chuẩn bị đánh Kon Tum, Gia Lai, nhưng thực tế là ta lại điều Sư đoàn 10, Sư
đoàn 320 xuống phía nam Tây Nguyên, chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột.
Thực hiện kế hoạch nghi binh, ta gấp rút triển
khai hàng loạt nhiệm vụ ở phía bắc Tây Nguyên: Ngay đầu năm 1975, Trung đoàn 7
công binh - Đoàn 559 mở thông đường 220, nối đường 14 ở Bắc Võ Định với đường
19 gần đèo Mang Yang, vòng qua Đông Bắc thị xã Kon Tum. Hai trận địa pháo binh
130 mm giả được triển khai ở phía bắc Kon Tum (thực ra chỉ có súng cối
120 mm). Xây dựng một số trận địa giả, đồng thời cho di chuyển quân vận,
khí tài nghi binh để cho địch phát hiện… các đơn vị thông tin ở lại giữ nguyên
vị trí và liên tục phát đi các bức điện giả, báo cáo giả, mệnh lệnh giả với tần
suất ngày càng cao.
Để đánh lừa địch, Bộ chỉ huy Mặt trận đã khẩn trương điều Sư đoàn 968
(thiếu) từ Lào về bắc Tây Nguyên, thế chân Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320. Tiếp quản
và sử dụng hệ thống liên lạc vô tuyến của 2 sư đoàn để lại. Ta còn cho người
vào phao tin Quân giải phóng sắp đánh lớn và Kon Tum và Pleiku. Dân chúng trong
các vùng tự do làm nhiều cờ, hoa, biểu ngữ chào mừng Pleiku và Kon Tum được
giải phóng.
Từ
ngày 28-2 đến những ngày đầu tháng 3-1975, Sư đoàn 968 mở nhiều trận đánh nghi
binh, mở màn Chiến dịch Tây Nguyên. Ta tiến công thị xã Pleiku, sân bay Cù
Hanh, căn cứ Hàm Rồng, thị xã Kon Tum, Đồn Tầm, Tây Thanh An, cắt Đường 14 Kon
Tum - Pleiku,.. làm cho địch càng tin chiến dịch của ta vào bắc Tây Nguyên đã
bắt đầu.
Còn
lực lượng hành quân xuống phía Nam, được lệnh không sử dụng hệ thống thông tin
hiện đại, chỉ sử dụng thông tin hữu tuyến và thông tin chạy chân. Và đảm bảo
ngụy trang kỹ lưỡng, ngày vào rừng, tối hành quân, đi đến đâu ngụy trang, xóa
dấu vết đến đó. Đầu tháng 2/1975, hơn 4 vạn quân thuộc 3 Sư đoàn bộ binh, các
binh chủng xe tăng thiết giáp, pháo cao xạ... đã tập kết an toàn ở phía đông
Buôn Ma Thuột mà địch không hề phát hiện. Ta tăng cường thêm Sư đoàn 316, cấp
tốc hành quân bằng 500 xe ô tô từ Nghệ An vào. Ta tập kết xong Sư đoàn 320 phía
bắc Buôn Ma Thuột, Sư đoàn 10 ở tây Buôn Ma Thuột chuẩn bị đánh Đức Lập, Sư
đoàn 316 tập kết ở khu vực Đăk Đoa, do chủ quan mà địch vẫn chưa biết gì.
Cùng lúc đó, tại Đắk Lắk, khi Trung đoàn 45 (Sư đoàn 23) của địch tổ
chức các cuộc hành quân lùng sục xung quanh khu vực Buôn Ma Thuột, Thuần Mẫn và
Đức Lập để tìm Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 của ta. Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên
đã lệnh cho các đơn vị của Sư đoàn 320A tạm lùi về phía Tây ém lực lượng, tránh
giao chiến.
Từ những thông tin trên, Tư lệnh Quân đoàn II của địch - Thiếu tướng
Phạm Văn Phú đã có một quyết định sai lầm: Điều Trung đoàn 45, Sư đoàn 23
từ Ea H’leo tức tốc về lại tây thị xã Pleiku, mặc dù trước đó đã phê chuẩn
kế hoạch chuyển sư đoàn này về Buôn Ma Thuột. Đến cuối tháng 2, CIA tại Sài Gòn vẫn phán đoán
mục tiêu tấn công chủ yếu của ta sẽ là Pleiku và Kon Tum.
Kế hoạch nghi binh của ta hoàn hảo tới mức,
ngày 8 và 9/3/1975, khi ta nổ súng đánh vào quận lỵ Thuần Mẫn và quận lỵ Đức
Lập, uy hiếp Buôn Ma Thuột mà Phạm Văn Phú vẫn không đoán được ý đồ tác chiến
của ta.
Hai giờ
sáng ngày 10/3/1975,
cuộc tiến công của Quân Giải
phóng vào Buôn Ma Thuột bắt đầu, với
các trận đột kích sâu của trung đoàn 198 đặc công vào các mục tiêu: Sân bay Hòa
Bình, khu kho Mai Hắc Đế, khu hậu cứ của Trung đoàn 53 ngụy. Đúng 4 giờ sáng
ngày 10/3, khi xe tăng của Quân giải phóng tiến vào nội đô Buôn Ma Thuột, Đại
tá Lê Khắc Hy, Tham mưu trưởng Quân khu 2 - Quân đoàn 2 ngụy vào phòng ngủ đánh
thức Phạm Văn Phú, lúc đó Phú mới biết Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính của ta.
Nhưng tất cả đã quá muộn, Buôn Ma Thuột thất thủ ngay trong ngày 10/3/1975. Các
đơn vị còn sống sót của quân đội Ngụy Sài Gòn cố gắng chống cự chờ viện binh
nhưng đến 11 giờ ngày 11 tháng 3, các đơn vị của Sư đoàn 316 đã hoàn toàn làm
chủ thị xã Buôn Ma Thuột.
Trong các ngày
từ 12/3 đến 17/3/1975, địch ra sức phản kích nhằm chiếm lại Buôn Ma Thuột. Chúng
sử dụng liên đoàn 21 biệt động quân (thiếu) phối hợp với 2 trung đoàn còn lại
của Sư đoàn 23 dùng trực thăng đổ bộ xuống Phước An (phía Đông Buôn Ma Thuột),
hình thành cánh quân phản kích đánh thẳng vào thị xã; điều 3 sư đoàn không quân
tới yểm trợ. Tuy nhiên, ta đã dự tính trước nên tổ chức phản kích hết sức hiệu
quả, đập tan toàn bộ lực lượng địch tham gia tái chiếm Buôn Ma Thuật, tiêu diệt
địch tại quận lỵ Phước An và khu vực Nông Trại. Đến 8 giờ 15 phút ngày 16/3,
tiểu đoàn 3, đơn vị cuối cùng của trung đoàn 45 (sư đoàn 23 Ngụy Sài Gòn) bị
đánh tan, trung tá Phùng Văn Quang và toàn bộ ban chỉ huy trung đoàn bị bắt làm
tù binh cùng với chiếc trực thăng đã nổ máy định bốc họ lên không.
11 giờ
30 ngày 17/3, ta đánh chiếm sân bay Hòa Bình. Trung đoàn 53 bị xóa sổ. Trận
phản kích của địch tái chiếm Buôn Ma Thuột thất bại. Ngày 18/3, toàn bộ quân
địch rút chạy khỏi Gia Lai và Kon Tum. Các tỉnh Tây Nguyên được giải phóng.

Bản
đồ tác chiến chiến dịch Tây Nguyên (Tư liệu)
Có
thể nói “Kế hoạch nghi binh trong Chiến dịch Tây Nguyên là “cuộc nghi binh hoàn
hảo” trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã giữ được bí mật đến phút chót,
khiến quân đội chính quyền Sài Gòn bất ngờ, không kịp trở tay. Việc ta đánh
Buôn Ma Thuột là đòn điểm huyệt, làm rung động thế bố trí của toàn quân đội Sài
Gòn ở Tây Nguyên. Bởi Nguyễn Văn Thiệu và tướng lĩnh ngụy quyền Sài Gòn đã phạm
sai lầm lớn về chiến lược, đó là rút khỏi Tây Nguyên để lui về cố thủ giữ Sài
Gòn và các tỉnh duyên hải miền Trung. Sai lầm này của Nguyễn Văn Thiệu đã dẫn
đến sự sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn, đồng thời tạo ra thời cơ chiến lược rất
lớn cho ta tiến vào Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất
nước.”(1)
Ngày
25-2-1975, tại một cánh rừng của Đắk Lắk, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên,
họp, thông qua phương án đánh chiếm Buôn Mê Thuột. (Ảnh tư liệu).
Bản thảo kế hoạch
nghi binh đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.
Nguyễn Vũ Điền
Chú thích: (1) PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà (nguyên Viện
trưởng Viện Lịch sử Đảng).