Đội quân nhà phật
Bút ký của Nguyễn Vũ Điền
Có một đội quân đi qua chiến tranh mà không đánh mất lòng nhân ái. Cầm súng nhưng không cướp đi sự sống. Gác súng rồi vẫn giữ một trái tim nóng và đôi tay ấm. Đó là đội quân của nhân dân, đội quân vì hòa bình - Quân đội Nhân dân Việt Nam. Người dân gọi họ bằng một cái tên rất đỗi thiêng liêng: “Bộ đội Cụ Hồ” và “Đội quân nhà Phật”.
Đội quân ấy bắt đầu từ đâu? Từ 34 người lính đầu tiên của “Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân”, thành lập trong đêm rét mướt 22/12/1944 giữa cánh rừng Trần Hưng Đạo (Cao Bằng). Vũ khí của họ ban đầu còn hết sức thô sơ, chủ yếu là mã tấu, súng kíp. Nhưng họ có một thứ vũ khí mạnh hơn tất cả, đó là lòng yêu nước và lý tưởng vì dân.
Khi Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, Bác Hồ đã căn dặn: "Việc thành lập Đội là rất cần thiết. Nó sẽ là đội quân đàn anh, gương mẫu. Nó sẽ giúp dân, làm cho dân tin, dân mến."
Từ lời dặn ấy, đội quân của nhân dân đã lớn lên trong khói lửa. Đã hành quân suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, để rồi làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc ách đô hộ kéo dài hàng thế kỷ của chủ nghĩa thực dân. Bên lá cờ chiến thắng, người chỉ huy vẫn là người thầy giáo giản dị, người con của mảnh đất Quảng Bình - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng huyền thoại suốt đời chỉ huy bằng trí tuệ và lòng nhân ái.
Hơn hai mươi năm tiếp theo, đội quân ấy lại tiếp tục băng rừng vượt núi, đi suốt dải Trường Sơn vào Nam chiến đấu. Họ chiến đấu không phải để giành giật gì cho riêng mình, mà để nối liền hai miền máu thịt. Họ nằm lại ở Khe Sanh, Thành cổ Quảng Trị, Tây Nguyên, Xuân Lộc, Củ Chi… và cả trong lòng những người mẹ già ngày đêm ngóng đợi con về.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, xe tăng của Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập. Chiến tranh kết thúc. Non sông thu về một mối. Nhưng người lính Cụ Hồ không vì thế mà dừng bước. Vẫn đôi dép cao su và chiếc ba lô giản dị năm xưa, họ lại đi mở đường, dựng trường, giữ rừng, giúp dân xóa đói, giảm nghèo…

Thiếu nữ Campuchia tặng hoa cho các chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam. Ảnh: Znews.vn
Cuối thập niên 1970, Khi chế độ Pol Pot gieo rắc họa diệt chủng lên đất nước mình, người dân Campuchia đã sống như giữa địa ngục trần gian. Và chính lúc ấy, những người lính tình nguyện Việt Nam đã vượt qua biên giới, mang theo máu mình để giữ lại sinh mạng cho người dân vô tội. Họ chiến đấu trong những cánh rừng đầy mìn, sống giữa đói khát và bệnh tật, nhưng không hề lấy đi một tấc đất, một hạt thóc của dân. Họ cứu dân, bảo vệ từng ngôi chùa, từng sư sãi, từng đứa trẻ gầy gò đang cận kề cái chết. Họ giúp dân dựng lại làng mạc, khôi phục chùa chiền… và không ít người đã ngã xuống mà không kịp trở về đất mẹ, mộ phần nằm lại dưới tán rừng khộp xứ người, không bia mộ, không người thân.
Chính trong những năm tháng ấy, người dân Campuchia đã dựng bàn thờ, dâng hương cúng lễ, và gọi họ là “bộ đội nhà Phật” - đội quân đến để hóa giải khổ đau, để cứu độ dân lành trong thời kỳ tăm tối nhất. Giữa nơi từng bị bóng ma diệt chủng bao phủ, người lính Việt Nam đã thắp lên ngọn lửa nhân đạo, để rồi chính họ cũng trở thành những biểu tượng sống động của lòng từ bi.
Ngày nay, trong thời bình, đội quân ấy vẫn tiếp tục hành trình nhân ái. Họ đến với vùng lũ miền Trung, đến rốn lửa rừng cháy Tây Nguyên, trèo đèo lội suối đến từng bản làng biên giới để dựng lại lớp học, dựng lại những cây cầu, những trạm y tế… Và khi quốc tế cần - như những lần động đất ở Nepal, sóng thần ở Indonesia, những người lính Việt Nam lại lên đường, mang theo không chỉ thiết bị cứu hộ mà còn là sự kiên cường, kỷ luật và tình người.
Đoàn hỗ trợ khắc phục hậu quả động đất Việt Nam tại Thủ đô Naypyidaw, Myanmar. Ảnh: Suckhoedoisong.vn
Những ngày này, khi trận động đất mạnh xảy ra tại Myanmar, nhiều quốc gia gửi đội cứu trợ đến giúp đỡ. Giữa vùng đất tan hoang, có một đoàn quân lặng lẽ, kiên nhẫn cứu người, đào bới từng đống đổ nát để tìm lấy hơi thở mong manh còn sót lại. Trên vai họ không có phù hiệu đặc biệt, trên ngực họ không gắn huân chương lấp lánh. Chỉ có màu áo xanh và ánh mắt kiên cường của người lính Cụ Hồ. Một cụ già người Myanmar rưng rưng nhìn người lính Việt Nam lau máu cho đứa cháu bị thương, cúi đầu chắp tay nói:
“You… good man. Thank you. Buddha bless you.”[1]
Có lẽ cũng từ những hành động như thế, cái tên "Đội quân nhà Phật" lại một lần nữa được nhắc đến - không phải như một danh xưng hào nhoáng, mà như một lời ghi nhận lặng thầm từ lòng dân, là minh chứng cho tinh thần “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hi sinh” trong thời đại mới.
Những ngày này, chúng ta đang hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975–30/4/2025) và 81 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944–22/12/2025), lịch sử không chỉ nhắc lại những chiến công lừng lẫy trong các cuộc kháng chiến mà dân tộc ta đã đi qua, mà còn cần lắng nghe những câu chuyện lặng thầm, những bước chân âm thầm dựng xây và giữ gìn hòa bình của những người lính “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”.
Xin được cúi đầu tưởng nhớ những người đã nằm xuống - trên đất mẹ, trên đất bạn, hay ở những nơi không tên gọi. Họ là những con người thầm lặng, như con suối nhỏ giữa đại ngàn, âm thầm làm mát lòng người. Họ không cần tượng đài, vì chính lòng dân đã là tượng đài sống động nhất cho họ. Họ không cần lời tung hô, vì trái tim họ đã gửi trọn cho nhân dân từ buổi đầu ra đi cứu nước.
“Đội quân nhà Phật” - đội quân không chỉ mang súng, mà còn mang theo lòng từ bi. Không chỉ chinh phục bằng vũ khí, mà chinh phục bằng nhân nghĩa. Không chỉ làm nên chiến thắng, mà làm nên lòng tin của nhân loại. Bởi vì chiến thắng nào rồi cũng sẽ lùi vào lịch sử, chỉ có tình người là ở lại.
Và chính những người lính Cụ Hồ - trong chiến tranh cũng như hòa bình - đã, đang và sẽ tiếp tục viết tiếp những câu chuyện diệu kỳ./.
[1] Tạm dịch: “Bạn là người đàn ông tốt. Xin cám ơn. Đức phật sẽ phù hộ cho bạn”
Ảnh, logo ST: Văn An.