Nhân tố quan trọng góp phần làm nên chiến thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ
NHÂN TỐ QUAN TRỌNG GÓP PHẦN LÀM NÊN CHIẾN THẮNG CỦA CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Nguyễn Vũ Điền - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Sơn La
Trong chiến tranh, vấn đề đảm bảo hậu cần là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ của một trận đánh hoặc một chiến dịch.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Công việc cung cấp cũng quan trọng như việc trực tiếp đánh giặc trước mặt trận: Cung cấp đủ súng đạn, đủ cơm áo cho bộ đội thì bộ đội mới đánh thắng trận”; “Các chú phải làm thế nào một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến sĩ. Đó là bổn phận của các chú”.(1)
Cuối năm 1953, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và nhanh chóng biến Điện Biên thành một tập đoàn cứ điểm vững chắc, thành một “con nhím” giữa những cánh rừng trùng trùng điệp điệp ở Tây Bắc Bắc Bộ. Chúng âm mưu kéo quân chủ lực ta vào cuộc chiến ở một nơi rất xa hậu phương, thiếu đường sá, phương tiện vận chuyển lạc hậu, hòng khoét sâu vào yếu điểm của ta để tiêu hao chủ lực của ta.
Về phía ta, nếu chọn Điện Biên phủ làm chiến trường tác chiến, ta phải chấp nhận những khó khăn vô cùng to lớn mà quân đội ta phải vượt qua, đó là bằng mọi cách, phải cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm, vũ khí khí tài, đạn dược, quân trang, quân dụng và cứu chữa thương bệnh binh, giải quyết công tác chính sách cũng như di chuyển toàn bộ lực lượng tham gia tác chiến bằng vận chuyển bộ, đến một địa bàn xa hậu phương hàng ngàn km trên những con đường độc đạo, phải vượt qua núi cao, vực thẳm và sẽ luôn bị địch đánh phá một cách hết sức khốc liệt. Đó là một thách thức không nhỏ, không dễ vượt qua đối với quân đội ta tại thời điểm đó.
Ngày 6-12-1953, sau khi phân tích tình hình trong nước và quốc tế, âm mưu của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở Việt Nam; đánh giá mức độ, khả năng chuẩn bị cung cấp cho mặt trận và thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội, Bí thư Tổng Quân ủy đã được chỉ định trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Chiến dịch.
Thấy rõ những khó khăn về công tác bảo đảm hậu cần khi tiến hành chiến dịch, Trung ương đã cử Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng trực tiếp làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương. Đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách các vấn đề về đường sá và cung cấp của chiến dịch.
Trước đó, trong quá trình chỉ đạo Chiến cuộc Đông Xuân 1953 -1954, khi quyết định chọn hướng Tây Bắc làm địa bàn chiến lược, xác đinh công tác đảm bảo hậu cần chiến dịch luôn phải đi trước một bước, ngày 15-6-1953, Ban Bí thư đã có Chỉ thị “Về việc lãnh đạo công tác làm cầu đường giao thông vận tải” do Tổng Bí thư Trường Chinh ký. Chỉ thị nêu rõ: “Hiện nay nhu cầu kháng chiến ngày càng nhiều, khối hàng phải vận chuyển tăng lên rất nhanh. Nhưng đường cầu, phà hiện nay rất xấu: đường hẹp, lầy, dốc, nhiều quãng ngoặt quá hẹp, xe đi vừa chậm vừa tốn dầu, hại máy, nhiều dốc cao không lên nổi, quãng ngoặt không quanh được; phà, cầu thì yếu, mục gẫy… Địch tăng cường phá hoại... Do đó, cấp ủy Liên khu Việt Bắc và các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ, Liên khu 4 và tỉnh Thanh Hóa, Liên khu 3 và tỉnh Hòa Bình, các cấp ủy phải tăng cường việc lãnh đạo công tác đường cầu, điều động những cán bộ tích cực, có năng lực phụ trách các công tác ấy để thực hiện cho kỳ được kế hoạch…”.(2)
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ chỉ huy, các mặt công tác bảo đảm hậu cần gấp rút được triển khai. Ngay từ cuối năm 1953, ta đã huy động hàng ngàn dân công và thanh niên xung phong cùng lực lượng công binh ngày đêm mở rộng tuyến đường 13A từ Yên Bái lên Cò Nòi, mở rộng tuyến đường từ Tuần Giáo lên Điện Biên Phủ dài 89 km với hơn 100 cầu cống được xây mới, bảo đảm cho xe vận tải cơ giới có thể vận chuyển liên tục. Ban chỉ huy chiến dịch quyết định xây dựng hai tuyến cung cấp: Tuyến chiến dịch dài 350 km được chia thành 4 binh trạm, mỗi binh trạm gồm đầy đủ các lực lượng vận tải, kho, quân y, vừa bảo đảm cho bộ đội hành quân, vừa tiếp chuyển vật chất lên phía trước. Tuyến vận tải bộ kết hợp với đường sông từ Mường Luân vào Nà Sang bảo đảm cho các đơn vị chiến đấu ở phía nam Điện Biên Phủ. Để giữ bí mật cho lựu pháo 105mm xuất trận, lực lượng pháo binh và bộ binh còn mở đường kéo pháo bằng sức người vào tận trận địa. Ngày 25/01/1954, mọi công việc chuẩn bị về hậu cần cơ bản hoàn thành.
Tuy nhiên, sau khi xem xét lại tình hình, Bộ Chỉ huy mặt trận quyết định chuyển kế hoạch tác chiến và phương châm từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Công tác đảm bảo hậu cần lại phải thay đổi kế hoạch cho phù hợp với yêu cầu mới, một mặt phải đảm bảo cho Đại đoàn 308 tác chiến tại Mường Khoa, tiến công địch tại phòng tuyến sông Nậm Hu, Mường Sài (Thượng Lào) vừa phải đảm bảo nhu cầu hậu cần cho bộ đội tại Điện Biên Phủ. Thời điểm này, tại mặt trận Điện Biên Phủ, quân số chiến đấu của ta lên đến 43.000 người cùng với dân công ở tuyến chiến dịch gồm hơn 30.000 người. Nhu cầu vật chất tăng nhiều lần so với kế hoạch ban đầu. Công tác hậu cần chiến dịch được bố trí thành ba tuyến chính: Tuyến Sơn La - Tuần Giáo do đồng chí Đinh Đức Thiện phụ trách. Tuyến Tuần Giáo - Lai Châu do đồng chí Vũ Văn Đôn, phó Cục trưởng Cục Vận tải phụ trách. Tuyến hậu cần hỏa tuyến trực tiếp bảo đảm cho các đơn vị chiến đấu ở phía trước do đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Cục trưởng Cục Quân nhu trực tiếp phụ trách. Trên tuyến này, lực lượng vận tải chủ yếu là dân công và xe đạp thồ, có nhiệm vụ vận chuyển vật chất cho các đại đoàn bộ binh, trung đoàn pháo binh và các kho trung chuyển. Hai bệnh viện mặt trận cũng được thành lập trên cơ sở hai đội điều trị 1 và 4. Ngoài ra, ta còn tổ chức hai tuyến vận tải phục vụ các đơn vị chiến đấu ở bắc và nam Điện Biên Phủ.
Sau hơn một tháng chuyển hướng chiến lược, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tấn công cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Toàn tuyến hậu cần bước vào trận chiến đấu mới ngày càng cam go, ác liệt hơn. Khó khăn lớn nhất của hậu cần chiến dịch là tuyến vận tải rất dài lại phải qua địa hình rừng núi hiểm trở, nhiều sông suối, đường hẹp và xấu. Nắm được khó khăn này của ta, địch tập trung lực lượng không quân đánh phá ác liệt các tuyến đường ra mặt trận. Nhiều trọng điểm bị địch ném bom, bắn rốc két suốt ngày đêm như tại đèo Lũng Lô, dốc Pha Đin, và đặc biệt là tại Ngã ba Cò Nòi - một điểm nút giao thông hết sức quan trọng nối đường 13A với đường 41. Hàng trăm chiến sỹ thanh niên xung phong, hàng ngàn dân công hỏa tuyến đã anh dũng hy sinh để bảo vệ tuyến đường, đảm bảo giao thông ở những trọng điểm bị địch đánh phá.
Để giữ vững tuyến hậu cần ra mặt trận, Bộ Tổng Tư lệnh đã phải điều động bốn tiểu đoàn công binh và hàng vạn thanh niên xung phong và dân công ngày đêm bám đường khắc phục hậu quả đánh phá của địch đồng thời bố trí hai tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly để bảo vệ tuyến đường. Trong hồi ký của mình, tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương - phải cay đắng thú nhận: “Tất cả những nỗ lực của không quân để ngăn trở việc sửa đường đều vô hiệu”.
Vượt qua những khó khăn gian khổ, trong suốt chiến dịch Điện Biên Phủ, mặc những trận mưa như trút của miền Tây Bắc, các lực lượng đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch đã thường xuyên bám đường, khắc phục sụt lở, lầy lội, phá bom nổ chậm, san lấp hố bom, đánh trả địch phá hoại,…giữ vững mạch máu giao thông, góp phần vào thắng lợi quân sự tại mặt trận. Do khối lượng hàng hóa phải đưa ra mặt trận rất lớn nên ta phải huy động toàn bộ lực lượng cơ giới của quân đội (khoảng 16 đại đội với 534 xe vận tải các loại). Đồng thời tổ chức nhiều tuyến vận tải bộ bằng dân công và phương tiện thô sơ gồm hơn hai vạn xe đạp thồ cùng 11.600 chiếc bè mảng để đưa hàng hóa ra tiền tuyến.
Do chủ động kế hoạch và tổ chức tốt công tác hậu cần, trong chiến dịch Điện Biên Phủ ta đã đảm bảo cho hơn 87.000 người tham gia chiến dịch, trong đó lực lượng trực tiếp chiến đấu là 53.830 người, dân công phục vụ là 33.000 người. Khối lượng vật chất phục vụ chiến dịch lên tới 20.000 tấn, trong đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu, 14.950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác. Tính chung, dân công chiến dịch đã phục vụ lên đến 12 triệu ngày công.
Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Thắng lợi đó là kết tinh tinh thần yêu nước nồng nàn của cả dân tộc ta trước vận mệnh của đất nước; của tinh thần chiến đấu dũng cảm vô song của các chiến sỹ ngoài mặt trận. Đồng thời, thắng lợi đó cũng là thắng lợi rất quan trọng của công tác bảo đảm hậu cần của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong điều kiện khó khăn của đất nước trước một kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “…Trên mặt trận Điện Biên Phủ, vấn đề bảo đảm cung cấp lương thực, đạn dược là một nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật, khó khăn về cung cấp lương thực không kém khó khăn về tình hình chiến đấu. Chính vì vấn đề cung cấp khó khăn như vậy cho nên quân địch không bao giờ tưởng tượng được rằng, chúng ta có thể khắc phục được khó khăn này. Bọn đế quốc, bọn phản động không bao giờ đánh giá được sức mạnh của cả một dân tộc. Sức mạnh đó có thể khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ địch”…
Về phía QĐNDVN, tuy có quân số đông hơn đối phương nhưng chưa có kinh nghiệm đánh công kiên lớn trên cấp tiểu đoàn. Theo lý thuyết quân sự "Ba công một thủ", bên tấn công phải mạnh hơn bên phòng thủ ít nhất là 3 lần cả về quân số lẫn hỏa lực thì mới là cân bằng lực lượng. Về quân số, QĐNDVN chỉ vừa đạt tỉ lệ này, nhưng về hỏa lực và trang bị thì lại kém hơn hẳn so với Pháp. Như các cuộc chiến tranh trước đó đã cho thấy, một nhóm nhỏ quân phòng thủ trong công sự kiên cố trên cao, sử dụng hỏa lực mạnh như đại liên có thể chặn đứng và gây thương vong nặng nề cho lực lượng tấn công đông hơn nhiều lần, đó gọi là lợi thế trên cao. Tiêu biểu như trận Iwo Jima, quân Mỹ dù áp đảo 5 lần về quân số và hàng chục lần về hỏa lực nhưng vẫn bị quân Nhật phòng thủ bằng súng máy và đại pháo trong các mỏm núi và lô cốt gây thương vong nặng nề (trận này quân Mỹ chịu thương vong còn cao hơn Nhật).
Trong từng trận đánh cụ thể, việc tiếp cận đồn Pháp cũng không dễ dàng. Khi Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 20 tháng 11 năm 1953, một trong những công việc đầu tiên của họ là dồn hàng nghìn dân sống ở trung tâm Điện Biên Phủ vào khu vực bản Noong Nhai. Sau đó, quân Pháp dùng súng phun lửa và bom cháy san phẳng mọi lùm cây và chướng ngại vật trong thung lũng, để tạo điều kiện tối đa cho tầm nhìn và tầm tác xạ của các loại hỏa lực, tiếp đó là để lấy nguyên vật liệu nhằm xây dựng tập đoàn cứ điểm. Các loại hỏa lực như xe tăng, lựu pháo, súng cối, súng phóng lựu, súng không giật (DKZ), v.v... được bố trí để bắn ngay khi phát hiện mục tiêu, nếu cần thì có thể gọi cả máy bay ném bom. Để có thể xung phong tiếp cận căn cứ địch, bộ đội Việt Nam sẽ phải chạy khoảng 200m giữa địa hình trống trải dày đặc dây kẽm gai và bãi mìn, phải hứng chịu đủ loại hỏa lực của Pháp mà không hề có xe thiết giáp và chướng ngại vật che chắn. Chỉ huy Pháp tự tin rằng, nếu QĐNDVN chỉ biết học theo cái chiến thuật biển người mà Trung Quốc áp dụng ở Triều Tiên, thì quân tấn công dù đông đảo tới đâu cũng sẽ bị bom, pháo và đại liên Pháp tiêu diệt nhanh chóng.
Xe tăng M24 Chaffee của Pháp do Mỹ viện trợ.
Thêm nữa, tuy quân Pháp bị bao vây vào giữa lòng chảo Điện Biên, Pháp ở đáy một chiếc mũ lộn ngược còn QĐNDVN ở trên vành mũ, nhưng đó là ở tầm quy mô chiến dịch. Từ đồn Pháp ra đến rìa thung lũng trung bình là 2 đến 3 km, vậy nên ở quy mô từng trận đánh thì Pháp lại ở trên cao, còn QĐNDVN phải ở dưới thấp tấn công lên. Quân Pháp cũng có dự trữ đạn pháo dồi dào hơn hẳn cùng với máy bay ném bom yểm trợ, nên áp đảo về hỏa lực: gấp 6 lần về đạn pháo và hơn tuyệt đối về không quân và xe tăng. Trung bình cứ 1 bộ đội Việt Nam phải hứng chịu 2 trái pháo, 1 trái bom và 6 viên đạn cối, trong khi không có xe tăng hay pháo tự hành để che chắn yểm trợ khi tiến công.
Việc bắn tỉa cũng hoàn toàn không đơn giản. Giống như phục kích, không phải chỗ nào cũng có thể là chỗ bắn tỉa được. QĐNDVN tuy có lợi thế hơn, nhưng thường thì những địa điểm bắn tỉa hiệu quả chỉ tập trung vào một vài đoạn hào chủ yếu. Một khi quân Pháp đã kê súng máy, hay chiếm được lợi thế trước thì công việc bắn tỉa gần như là bất khả thi. Các loại súng bắn tỉa của bộ đội Việt Nam thời đó cũng khá là thô sơ (chủ yếu là MAS-36 thu được của quân Pháp hoặc là Mosin-Nagant được Trung Quốc viện trợ), phần lớn chỉ dùng thước ngắm cơ khí thông thường, nên với những khoảng cách lớn (trên 300m), việc bắn tỉa không có hiệu quả.
Và đặc biệt khó khăn lớn nhất của QĐNDVN là khâu tiếp tế hậu cần. Phía Pháp cho rằng QĐNDVN không thể đưa pháo lớn (cỡ 105mm trở lên) vào Điện Biên Phủ, các khó khăn hậu cần của QĐNDVN là không thể khắc phục nổi nhất là khi mùa mưa đến. Navarre lý luận rằng Điện Biên Phủ ở xa hậu cứ Việt Minh 300–400 km, qua rừng rậm, núi cao, QĐNDVN không thể tiếp tế nổi lương thực, đạn dược cho 4 đại đoàn được, giỏi lắm chỉ một tuần lễ là QĐNDVN sẽ phải rút lui vì cạn tiếp tế. Trái lại quân Pháp sẽ được tiếp tế bằng máy bay, trừ khi sân bay bị phá hủy do đại bác của QĐNDVN. Navarre cho rằng trường hợp này khó có thể xảy ra vì sân bay ở quá tầm trọng pháo 105 ly của QĐNDVN, và dù QĐNDVN mang được pháo tới gần thì tức khắc sẽ bị máy bay và trọng pháo Pháp hủy diệt ngay.
Vì các lý do trên, khi thiết lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã đánh giá sai khả năng của đối phương và đều tự tin cho rằng Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả chiến bại", là "cái bẫy để nghiền nát chủ lực Việt Minh". Nếu QĐNDVN tấn công sẽ chỉ chuốc lấy thảm bại.
Tướng Cogny đã trả lời phỏng vấn rằng: "Chúng tôi đã có một hỏa lực mạnh đủ sức quét sạch đối phương đông gấp 4-6 lần… Tôi sẽ làm tất cả để bắt tướng Giáp phải "ăn bụi" và chừa cái thói muốn đóng vai một nhà chiến lược lớn". Tướng Navarre nhận xét: "Làm cho Việt Minh tiến xuống khu lòng chảo! Đó là mơ ước của Đại tá Castries và toàn ban tham mưu. Họ mà xuống là chết với chúng ta... Và cuối cùng, chúng ta có được cái mà chúng ta đang cần: đó là mục tiêu, một mục tiêu tập trung mà chúng ta có thể " quất cho tơi bời". Charles Piroth, chỉ huy pháo binh thì tự đắc: "Trọng pháo thì ở đây tôi đã có đủ rồi… Nếu tôi được biết trước 30 phút, tôi sẽ phản pháo rất kết quả. Việt Minh không thể nào đưa được pháo đến tận đây; nếu họ đến, chúng tôi sẽ đè bẹp ngay... và ngay cả khi họ tìm được cách đến, tiếp tục bắn, họ cũng không có khả năng tiếp tế đầy đủ đạn dược để gây khó khăn thật sự cho chúng tôi!" [13] Pierre Schoenderffer, phóng viên mặt trận của Pháp, nhớ rõ câu trả lời của Piroth: "Thưa tướng quân, không có khẩu đại bác nào của Việt Minh bắn được 3 phát mà không bị pháo binh của chúng ta tiêu diệt!"
Các nỗ lực hậu cần Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng với Tổng cục Cung cấp đã tính toán rằng: Bước đầu, ta phải huy động cho chiến dịch ít nhất 4.200 tấn gạo (chưa kể gạo cho dân công), 100 tấn rau, 100 tấn thịt, 80 tấn muối và 12 tấn đường. Tất cả đều phải vận chuyển qua chặng đường dài 500 km phần lớn là đèo dốc hiểm trở, máy bay Pháp thường xuyên đánh phá. Theo kinh nghiệm vận tải đã tổng kết ở chiến dịch Tây Bắc (năm 1952), nếu dùng dân công gánh gạo bằng đòn gánh thì để có 1 kg gạo đến đích phải có 24 kg ăn dọc đường. Vậy nếu cũng vận chuyển hoàn toàn bằng dân công gánh bộ, muốn có số gạo trên phải huy động từ hậu phương hơn 100.000 tấn gạo, và phải huy động hơn 2 triệu dân công để gánh. Cả hai con số này đều cao gấp nhiều lần so với nguồn lực có thể huy động được.
Tranh Bộ đội xây dựng cầu, ký họa năm 1954 của Trần Văn Cẩn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã đề ra những giải pháp quyết đoán và đầy sáng tạo. Một mặt, Bác động viên nhân dân và các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc ra sức tiết kiệm lương thực để đóng góp ngay tại chỗ. Mặt khác, Bác lại động viên dân công phối hợp với công binh ra sức đẩy mạnh việc làm đường, sửa đường, huy động tối đa các phương tiện vận chuyển như: xe ngựa, xe đạp thồ, thuyền bè... nhằm giảm đến mức tối đa lượng lương thực, thực phẩm bị tiêu thụ dọc đường vận chuyển do phải đưa từ xa tới.
Số dân công chỉ tính từ trung tuyến trở lên, đã cần tới 14.500 người. Về chuẩn bị đường sá, các con đường thuộc tuyến chiến dịch đều phải bảo đảm vận chuyển bằng ô tô. Trước đây, để chuẩn bị đánh Nà Sản, con đường 13 từ Yên Bái lên Tạ Khoa đã sửa chữa xong, nhưng lúc này cần tiếp tục tu bổ thêm. Đường từ Mộc Châu đi Lai Châu rất xấu, phải sửa chữa nhiều. Phân công cho Bộ Giao thông Công chính phụ trách đường 13 lên tới Cò Nòi, và đường 41 từ Mộc Châu lên Sơn La, bộ đội phụ trách quãng đường 41 còn lại từ Sơn La đi Tuần Giáo, và từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ (sau này gọi là đường 42). Hai trung đoàn bộ binh cùng bộ đội công binh và hàng ngàn dân công được huy động để mở rộng 89 km đường và tu sửa 100 cầu hư hỏng trên đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ để ô tô gấp rút chuyển gạo và đạn cho các đơn vị. Hậu cần chiến dịch còn tổ chức tuyến vận tải bộ Sơn La - Mường Luân - Nà Sang bảo đảm cho các đơn vị ở Hồng Cúm; tổ chức thuyền, bè mảng theo sông Nậm Na chuyển 1.700 tấn gạo do Trung Quốc viện trợ từ Ba Nậm Cúm về Lai Châu. Thời gian tiến hành từ tháng 12 năm 1953. Trong giai đoạn chuẩn bị, các lực lượng cầu đường đã làm mới 89 km và sửa chữa nâng cấp được 500 km đường.
Toàn bộ 16 đại đội xe ô tô vận tải (534 xe) của Tổng cục Cung cấp đã được sử dụng (tuyến chiến dịch sử dụng 446 xe); có thời gian còn được tăng cường 94 xe của các các đơn vị binh chủng.
Để một lực lượng mạnh cho chiến dịch Điện Biên Phủ, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã huy động tối đa về sức người và sức của: hàng vạn dân công và bộ đội làm đường dã chiến trong khoảng thời gian cực ngắn, dưới các điều kiện rất khó khăn trên miền núi, lại luôn bị máy bay Pháp oanh tạc. Các dân công từ vùng do Việt Minh kiểm soát ở miền xuôi đi tiếp tế lên Điện Biên bằng gánh gồng, xe đạp thồ kết hợp cùng cơ giới để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch. Đội quân gồm thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, được huy động tới hàng chục vạn người (gấp 5 lần số bộ đội chủ lực) và được tổ chức biên chế như quân đội.
Một trong những lực lượng quan trọng phục vụ hậu cần cho chiến dịch là đội xe thồ trên 2 vạn người, với năng suất tải mỗi xe chở được 200–300 kg,[16] kỷ lục lên đến 352 kg (người đó là ông Ma Văn Thắng, chỉ huy đội dân công hơn 10 người ở Thanh Ba (Phú Thọ). Hiện nay, tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam có trưng bày chiếc xe đạp thồ của ông Thắng). Xe thồ được cải tiến có thể cho năng suất chở hàng cao hơn gấp hơn 10 lần dân công gánh bộ. Đồng thời, xe thồ cũng làm giảm được mức tiêu hao gạo ăn dọc đường cho người chuyên chở. Ngoài ra, xe thồ còn có thể hoạt động tốt trên cả những tuyến đường ghồ ghề, sình lầy, lắm bùn đất mà ô tô không thể đi được. Chính phương tiện vận chuyển thô sơ này đã gây nên sự bất ngờ lớn ngoài tầm dự tính của các chỉ huy Pháp, làm đảo lộn toàn bộ những tính toán, dự đoán trước đây của Pháp khi cho rằng Việt Minh không thể bảo đảm hậu cần cho một chiến dịch lớn, dài ngày trong các điều kiện phức tạp như vậy được.
Trong một tháng, bộ đội và thanh niên xung phong đã làm được một khối lượng công việc đồ sộ. Con đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ, dài 82 km, trước đây chỉ rộng 1 m, đã được mở rộng và sửa sang cho xe kéo pháo vào cách Điện Biên 15 km. Từ đây, các khẩu pháo được kéo bằng tay vào trận địa trên quãng đường dài 15 km. Đường kéo pháo rộng 3 mét, chạy từ cửa rừng Nà Nham, qua đỉnh Pha Sông cao 1.150 mét, xuống Bản Tấu, đường Điện Biên Phủ - Lai Châu, tới Bản Nghễu, mở mới hoàn toàn. Để bảo đảm bí mật, đường được ngụy trang toàn bộ, máy bay trinh sát Pháp khó có thể phát hiện.
Tổng cộng trong thời gian tiến hành chiến dịch, Việt Minh đã huy động được hơn 261.451 dân công từ các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4…, 20.991 xe đạp thồ, 11.800 bè mảng, đóng góp cho chiến dịch 25.000 tấn lương thực. Ngoài ra, từ Thanh Hóa, Hòa Bình, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ… cũng đã huy động được hơn 7.000 xe cút kít, 1.800 xe trâu, 325 xe ngựa, hàng chục ngàn xe đạp thồ để phục vụ hậu cần chiến dịch. Trừ số tiêu hao dọc đường, số hàng tới được mặt trận để cung cấp cho quân đội là 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62 tấn đường, 577 tấn thịt, 565 tấn lương khô, 1.200 tấn đạn, 1.733 tấn xăng dầu và 177 tấn vật chất khác. Số lượng hàng hóa bảo đảm cho hơn 87.000 người tham gia chiến dịch, trong đó 53.830 là bộ đội chủ lực (dự kiến 35.000 người) và 33.300 thanh niên xung phong/dân công phục vụ chiến dịch; vận chuyển và cứu chữa 8.458 thương bệnh binh (dự kiến 5.000)[17]
Để ngăn chặn, máy bay Pháp đã không kích 1.186 trận vào các tuyến giao thông, ngày cao nhất sử dụng 250 lần máy bay ném bom (có cả máy bay B-26). Các đèo Lũng Lô, Pha Đin, các đầu mối giao thông Cò Nòi, Tuần Giáo, bến phà Tạ Khoa... thành trọng điểm đánh phá, có ngày Pháp ném xuống Cò Nòi và đèo Pha Đin 160-300 quả bom các loại. Để bảo đảm giao thông thông suốt, Bộ chỉ huy Chiến dịch đã sử dụng 2 tiểu đoàn pháo cao xạ 37 mm, các tiểu đoàn súng máy 12,7mm bắn máy bay; 4 tiểu đoàn công binh cùng hàng vạn dân công bám các trục đường để sửa chữa cả ngày lẫn đêm. Từ tuyến trung tuyến trở lên đã sửa được 308 km đường ô tô, làm mới 63 km đường kéo pháo, phá 102 thác để tổ chức vận tải thủy trên sông Nậm Na. Tổng khối lượng đào đắp lên tới 35.000m3 đất, 15.000m3 đá, phá hàng ngàn quả bom nổ chậm. Vì vậy, trong suốt Chiến dịch “...hiếm có đoạn đường nào bị đứt quá 24 giờ. Hơn nữa, trong thời gian đường bị cắt đứt, việc vận chuyển vẫn được tiếp tục bằng cách chuyển tải hoặc đi vòng đường khác”[18].
Ngoài ra, các chỉ huy pháo binh Pháp cũng đã đánh giá quá sai lầm khả năng tác chiến bằng pháo binh của QĐNDVN khi cho rằng với địa hình rừng núi quá hiểm trở, không có đường giao thông nên đối phương không thể nào có năng lực mang được các loại pháo cỡ lớn (lựu pháo 105mm và pháo phòng không 37 mm) vào Điện Biên Phủ tham chiến mà chỉ có thể mang loại pháo nhẹ là sơn pháo 75 mm trợ chiến mà thôi. Trong thực tế chiến đấu, tất cả vũ khí của quân Pháp trong trận này đều là do không quân vận tải từ các sân bay ở Bắc Bộ vận chuyển đến. Các tướng Pháp ngạo mạn cho rằng xe vận tải của Quân đội Nhân dân Việt Nam không thể chạy tới Điện Biên Phủ được. Tuy nhiên, những người lính pháo binh của QĐNDVN đã đáp trả lại sự ngạo mạn của các chỉ huy Pháp bằng cách khôn khéo tháo rời những chi tiết có thể tháo rời được một cách đơn giản và dễ dàng của khẩu pháo (như bệ pháo, tấm chắn, quy-lát pháo,...) rồi dùng sức người để vận chuyển đến trận địa. Sau khi đến trận địa thì bộ đội pháo binh Việt Minh tiến hành lắp ráp những chi tiết này lại với nhau một cách bí mật, nhanh chóng và chính xác. Bằng cách thức đơn giản đó, bộ đội pháo binh Việt Nam đã đưa được thành công những khẩu lựu pháo 105 mm nặng tới 2,2 tấn (hay những cỗ pháo phòng không 37mm nặng 2,1 tấn) lên bố trí sâu trong các hầm pháo được lính công binh khoét vào sâu bên trong các lòng núi, sườn đồi. Bộ đội pháo binh Việt Minh đã xây dựng các trận địa pháo cực kì bí mật, an toàn nhưng lại rất nguy hiểm với quân Pháp. Từ trên cao, những trận địa này khống chế rất tốt lòng chảo Điện Biên Phủ mà lại cực kỳ an toàn trước bom và pháo của đối phương. Với thế trận hỏa lực này, các khẩu pháo của QĐNDVN được đặt chỉ cách mục tiêu chừng 5–7 km, chỉ bằng một nửa tầm bắn tối đa để mỗi phát đạn được bắn ra phải chính xác hơn, ít tốn đạn và sức công phá cũng cao hơn,[19] thực hiện đúng nguyên tắc "hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung" được đại tướng Võ Nguyên Giáp đề ra, từ nhiều hướng bắn chụm vào một trung tâm. Ngược lại, pháo binh Pháp lại bố trí ở ngay giữa trung tâm, phơi mình trên trận địa, nhanh chóng trở thành mục tiêu cho pháo Việt Minh ngắm thẳng vào phản pháo, bắn phá.