Những cây thuốc mang tên Mèo
Phần lớn các bộ phận từ cơ thể mèo đều
có tác dụng y dược tích cực, chế được thành thuốc bồi bổ sức khỏe, chữa trị
nhiều bệnh ở người. Do có ảnh hưởng sâu rộng, đa dạng tới lĩnh
vực ngôn ngữ, nên hình tượng mèo còn thấy trong tên hiệu của các vị thuốc và
nhiều loài thực vật, đặc biệt là những cây thuốc giá trị.
CHÀM MÈO
Chàm
mèo (tên khoa học: Strobilanthes cusia, họ Ô rô) còn có tên là chàm lá to, chàm nhuộm, mã lam, đại lam, thanh đại. Cây nhỏ, cao
40-80 cm, thân nhẵn, phân nhánh nhiều, phình lên ở các mấu. Lá mọc đối, hình
bầu dục với phần cuống thuôn và phần đầu nhọn, mép khía răng tròn. Hoa thưa,
màu lam tím hoặc tím hồng.
Cây vừa
mọc hoang vừa được gieo trồng, phổ biến ở các tỉnh miền núi phía Bắc, cho bột
chàm vị đắng nhạt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, tán uất, lương huyết,
giải độc, trị nhiệt độc, sưng lở. Dùng chữa cam nhiệt, chảy máu chân răng, sốt
nặng, viêm hạnh nhân, nôn mửa, thổ tả, tam cẩu mã, rong kinh, sỏi thận.
CÂY GAI MÈO
Cây
gai mèo (tên khoa học: Cannabis sativa, họ Gai dầu) còn gọi là cây gai dầu, gai xanh, đại ma, lanh mèo.
Cây thảo, mọc đứng, cao 1-2 m. Lá mọc so le với đầu nhọn, mép khía răng. Hoa
màu vàng nhạt. Quả bé, hình trứng hơi dẹt, màu xám nhạt.
Cây được
trồng ở miền núi, khá đa dụng: lá, hoa và quả làm thuốc; thân cây làm sợi dệt;
hạt làm dầu và thức ăn cho người và gia súc. Hoa và quả non mang vị cay, tính
ôn, có tác dụng khư phong, chỉ thống, trấn kinh. Hạt mang vị ngọt, tính bình,
có tác dụng nhuận táo, hoạt trường, thông tiện. Dùng chế thuốc (chủ yếu là sắc
uống), chúng chữa trị mất ngủ, đau nửa đầu, hen suyễn, động kinh, thấp khớp,
táo nhiệt, chướng bụng, tử cung chảy máu.
CÂY LƯỠI MÈO
Cây
lưỡi mèo (tên khoa học: Sansevieria trifasciata var, họ Thùa) còn
mang tên là cây thạch vĩ, kim tinh thảo. Cây
dương xỉ nhỏ, có thân rễ bò dài, phủ nhiều vảy hình ngọn giáo, màu nâu sẫm ở
phần gốc. Lá mọc cách xa nhau; lá không sinh sản có cuống ngắn, hình trái xoan;
còn lá sinh sản có cuống dài, hình lưỡi
mèo.
Cây gặp
nhiều ở miền núi và trung du. Toàn cây hay thân rễ thu hái quanh năm, rửa sạch,
cắt đoạn, phơi hoặc sấy khô, trở thành nguồn dược liệu mang vị đắng, hơi cay,
tính hàn, vào 2 kinh phế và bàng quang, có tác dụng thanh nhiệt, chỉ huyết,
tiêu thũng, kết tán, lợi tiểu. Sắc uống hoặc tán thành bột mịn, dùng chữa lở
loét, ung nhọt, ngộ độc lưu huỳnh, phế nhiệt sinh ho, viêm thận phù thũng, đái
buốt, sỏi đường tiết niệu, rong kinh, bạch đới, đại tiểu tiện ra máu.
CÂY MẮT MÈO GAI
Cây
mắt mèo gai (tên khoa học: Mimosa pigra, họ Đậu) còn có tên cây cò cưa, cây đa đa, dây hải sơn, dây
săng. Cây bụi, phủ lông mịn như len. Thân cành có gai cong, cành non màu
nâu tím. Lá kép so le, 5-11 lá trên một cuống lớn.
Cây mọc
hoang ở nhiều nơi. Rễ, cành, lá và vỏ thân cây dùng tươi hoặc phơi sấy khô làm
thuốc. Chúng mang vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chữa
trị sốt rét, đau bụng, tiêu chảy, kiết lỵ, kinh nguyệt không đều.
CÂY MÓC MÈO
Cây
móc mèo (tên khoa học: Caesalpinia bonducella, họ Vang) còn gọi
là cây móng mèo, móc diều, vuốt hùm, trần
sa lực. Cây nhỏ, thân mảnh dây leo, toàn thân, nhánh, cuống lá, gân lá đều có gai nhỏ quặp xuống như móng mèo.
Cây mọc
hoang ở nhiều nơi; thân, rễ, lá, hạt đều có thể dùng làm thuốc dưới dạng tươi
hoặc phơi khô. Cây móc mèo mang vị đắng, hơi the, tính ấm, có tác dụng trừ hàn,
trực ứ, giảm đau, sát trùng, giải độc; hạt rất đắng, có tác dụng tán ứ, giảm
đau, khu thấp. Rễ chữa phong thấp, đau nhức xương, viêm ruột, kém ăn, mất ngủ,
sâu răng, đau nhức răng. Lá tươi dùng ngoài chữa đòn ngã, chấn thương, rắn cắn.
Thân chữa ho gà, viêm đường hô hấp, viêm thận. Hạt chữa nôn ọe, thổ tả, kiết
lỵ, tiểu tiện ra máu, thương hàn, sốt rét, đau bụng, đau lưng.
CÂY TAI MÈO
Cây
tai mèo (tên khoa học: Abroma augusta, họ Cẩm quỳ) còn mang tên
là cây bông vang, phác nhật sai. Thân
nhỏ, cao 1-3 m. Cành non có lông dày, hình sao; cành già nhẵn, hình trụ. Lá
hình đa dạng và mọc so le. Cánh hoa hình
tai mèo.
Cây mọc
chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Rễ và lá tai mèo mang vị hơi đắng, tính
bình, có tác dụng hoạt huyết tán ứ, tiêu thũng; dùng chữa mụn nhọt sưng đỏ, đòn
ngã gãy xương, kinh nguyệt không đều, chướng bụng và bệnh lậu. Còn vỏ rễ tai
mèo có tác dụng điều kinh, tăng trương lực tử cung; dùng chữa bại liệt, lậu,
đau kinh, kinh nguyệt không đều.
CÂY RÂU MÈO
Cây
râu mèo (tên khoa học: Orthosiphon stamineus, họ Bạc hà) còn có
tên là cây bông bạc. Cây thảo, nhỏ,
cao 30-50 cm. Thân mảnh, cứng, hình vuông, mọc đứng và thường có màu nâu tím.
Lá mọc đối, hình trứng, mép khía răng to. Hoa màu trắng hoặc hơi tím có nhị mọc dài và hơi cong như râu mèo.
Cây
phân bố rải rác ở các tỉnh miền núi và thân, lá tươi được dùng làm thuốc. Nó
mang vị ngọt nhạt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, trừ
thấp. Sắc tươi uống hoặc nấu thành cao lỏng, dùng chữa trị viêm thận mãn tính,
viêm bàng quang, tiểu đường, viêm khớp, phong thấp, viêm ruột, đái ra sỏi, đái
ra máu, đái buốt.
CỎ LƯỠI MÈO
Cỏ
lưỡi mèo (tên khoa học: Elephantopus scaber, họ Cúc) còn gọi là cỏ chỉ thiên, cây thổi lửa, chân voi nhám. Cây
thảo, nhỏ, cao 20-50 cm. Thân hình trụ, cứng, phân nhiều nhánh khi có hoa. Lá ở
gốc có hình mác và mọc thành hình hoa thị. Lá phía trên nhỏ hơn nhiều, mép có
khía răng và hai mặt có lông trắng.
Cây mọc
hoang và cũng được trồng tại nhiều nơi. Cả rễ, thân, lá đều có thể dùng tươi
làm thuốc. Chúng mang vị đắng, tính mát, vào 2 kinh phế và tỳ, có tác dụng
thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, thông tiểu, tiêu thũng. Dưới dạng sắc uống
hoặc giã đắp, chữa trị môi lở sung đau, đinh râu, nhọt độc, rắn cắn, cảm sốt,
ho, hen suyễn, các bệnh đường tiết niệu, di căn ung thư limphô.
ĐẬU MÈO
Đậu
mèo (tên khoa học: Mucuna pruriens, họ Đậu) còn mang tên là dây mắt mèo, sắn dây rừng. Dây leo, thân cành phủ lông mềm. Lá kép
mọc so le; hoa màu tím sẫm. Quả dẹt, cong hình chữ S; hạt hình bầu dục, màu nâu
bóng.
Cây mọc
ở các tỉnh miền núi. Rễ và hạt già phơi khô, dùng làm thuốc chữa rắn cắn, tẩy
giun đũa, kích thích sinh dục.
LÚA MÈO
Lúa
mèo (tên khoa học: Zizania latifolia, họ Lúa) còn có tên là củ niễng, giao bạch tử. Cây thảo, mọc ngập trong nước. Thân xốp và
mềm, thẳng, nhẵn, phình ra ở gốc. Lá mọc so le thành hai hàng đều, dài 30-100
cm, cuống có bẹ to ôm lấy thân. Quả ở đầu ngọn nhưng ít gặp.
Cây được
trồng rải rác ở một số tỉnh đồng bằng và trung du miền Bắc. Phần gốc và quả
mang vị ngọt, tính hàn, vào 2 kinh thủ dương minh và túc dương minh, có tác
dụng thanh nhiệt, trừ phiến, sinh tân, chỉ khát, lợi đại tiểu tiện. Dùng tươi
hoặc khô, nấu ăn hoặc sắc uống, chữa trị phiền nhiệt, miệng khát, say rượu, đỏ
mắt, vàng da, suy tim, đại tiểu tiện không thông.
NẤM TAI MÈO
Nấm
tai mèo (tên khoa học: Auricularia auricula, họ Mộc nhĩ) còn gọi
là mộc nhĩ. Là loại nấm cuống rất
ngắn, có mũ giống tai mèo, mép nhăn nheo cuộn vào trong. Mặt ngoài màu nâu nhạt
sau nâu hồng, có lông mịn trắng; mặt trong nâu sẫm và nhẵn.
Cây mọc
hoang trên những cây gỗ mục và được nuôi trồng ở khắp nơi. Nấm tai mèo mang vị
ngọt, tính bình, vào 2 kinh vị và đại tràng, có tác dụng lương huyết, chỉ
huyết, ích khí. Ngoài công dụng làm thức ăn, nó còn được dùng dưới dạng nấu
chín, phơi khô hoặc đốt tán bột để chữa chứng chảy nước mắt nhiều, chảy máu
mũi, xơ vữa động mạch, băng trung lậu hạ, băng huyết, rong kinh, trĩ, kiết lỵ.
TÁO MÈO
Táo
mèo (tên khoa học: Docynia indica, họ Hoa hồng) còn mang tên là táo rừng, sơn tra. Cây nhỡ, cao 5-6 m, lúc non có gai. Lá mọc so
le, có hình bầu dục, mép khía răng không đều. Hoa màu trắng, có lông. Quả hình
trứng, đường kính 3-4 cm, khi chín màu vàng lục.
Cây mọc
hoang và được trồng ở các tỉnh vùng Tây Bắc. Nó mang vị chua, ngọt, hơi chát,
tính ấm, có tác dụng kiện vị, tiêu thực. Quả chín đem phơi sấy khô, dùng dưới
dạng bột, viên hoặc cao lỏng làm thuốc bổ tỳ, kích thích tiêu hóa, khiến ăn
ngon, dễ tiêu, chữa đầy bụng, ợ chua, ra mồ hôi trộm.
Xuân Hồng