GA VĨNH YÊN
Đang gật gù, bỗng tôi tỉnh giấc khi nhân viên thông báo tàu đang vào ga. Tiếng bánh tàu xiết trên những thanh ray chậm dần, rồi dừng hẳn. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu lắc lư giữa toa, mọi người dồn lên, đứng chật cả lối đi. Họ chuẩn bị xuống tàu. Mùi mồ hôi, mùi mắm tôm, cá khô và vô số thứ mùi khác trộn vào nhau đặc quánh.
Tiếng loa tay, với một giọng nữ nghe như đang ngạt mũi cất lên phía cửa ga: “A lô, a lô. Hành khách chú ý, đoàn tàu khách mang số hiệu HL-03, Hà Nội - Lào Cai đã về đến ga Vĩnh Yên. Đề nghị hành khách khẩn trương ra ga theo cửa soát vé. Hành khách lên tàu khẩn trương vào ga để đoàn tàu có thể tiếp tục hành trình".
Chờ cho mọi người qua hết, tôi lần theo giá hành lý, cởi nút buộc quai ba lô với thanh đỡ hàng, nhấc lên khoác vào vai rồi bước ra cửa toa. Vừa nhảy xuống tàu, cái rét bỗng ùa đến khiến vai tôi tự nhiên co lại. Lách qua cửa soát vé, chìa vé cho người đàn bà mặc chiếc áo công nhân, tay cầm chiếc đèn bão tối mù đứng chắn giữa lối đi, tôi bước chân vào ga.
Nhà ga tối om, sực mùi nước đái và xú uế. Đây đó những ngọn đèn dầu leo lét quanh những mẹt hàng rong, tạo thành những quầng sáng đỏ quạch giữa nhà ga tối mịt. Nền nhà lép nhép bùn nhão. Trong cái không gian tối tăm và bẩn thỉu ấy, chỗ nào cũng có người. Kẻ đứng, người ngồi. Trên tay họ, dưới chân họ là những đống bao tải lỉnh kỉnh, tiếng gọi nhau ý ới. Họ đang chen chân để giành lối vào ga. Tiếng tru tréo của mấy bà buôn đường dài giành giật với mấy nhân viên kiểm soát vé. Tiếng rao lanh lảnh của mấy người bán hàng rong, mấy bà bán nước chè chén, tiếng chửi đổng của mấy thằng chuyên cờ bạc, móc túi dọc theo các chuyến tàu…tất cả tạo thành một thứ âm thanh hỗn độn.
Nhìn đồng hồ. Mới hai giờ sáng. Đoạn đường từ ga về đơn vị khoảng sáu km. Nếu bình thường, tôi có thể đi bộ, nhưng sau hơn một ngày vạ vật từ Vinh về Hà Nội, rồi từ Hà Nội lên Vĩnh Yên, cơ thể nhão nhoẹt. Vả lại, suốt mấy hôm phải căng mình trên những chuyến tàu chợ đông nghẹt người, nên lúc này cơn buồn ngủ chợt đến. Mắt trĩu nặng, khiến tôi quyết định sẽ nghỉ lại tại nhà ga, đợi sáng hẳn mới về.
Đang định ra phía cửa ga hút thuốc, chợt nghe tiếng gọi:
- Chú bộ đội ơi, mời chú uống nước.
Đó là tiếng gọi của một bà bán nước chè chén ngay giữa nền ga. Tôi ngả người, đặt chiếc ba lô xuống đất, ngồi lên một trong những chiếc ghế gỗ thấp tè quây quanh cái thúng, bên trên là một cái mẹt, đặt vài lọ kẹo lạc, kẹo vừng và chiếc đèn dầu tù mù đang phả khói đen kịt. Người bán hàng chừng 60 tuổi, khuôn mặt teo tóp, đen sạm và nhăn nheo, hậu quả của việc thức đêm liên tục bàn hàng. Rót cho tôi chén nước, bà than thở:
- Tàu bè dạo này chán quá. Hôm nào cũng chậm. Lẽ ra chuyến này phải lên lúc 10 giờ mà bây giờ mới tới. Mà sao người ta đi đâu nhiều thế không biết.
Tôi tợp một ngụm trà. Nước đặc sánh. Vừa rút điếu thuốc định hút thì bỗng thấy bên ngoài ồn ào và tiếng hô “Cướp… cướp, bắt lấy nó”. Có tiếng chạy uỳnh uỵch xa dần. Tôi khoác vội chiếc ba lô vào vai rồi chạy ra sân ga. Mọi người đang xúm lại quanh một người đàn bà. Chị khóc rưng rức, khóc như bị ai đánh giữa đám người hiếu kỳ vây quanh. Dưới ánh sáng của ánh đèn pin quét loang loáng, một người đàn bà khoảng 40 tuổi, khuôn mặt khắc khổ và một cô bé khoảng 10 tuổi, với nét mặt bơ phờ và hoảng hốt đang ngồi bệt xuống sân ga mà khóc. Vừa khóc, chị vừa kể:
- Em khổ lắm các bác ạ. Em đi tàu từ Phú Thọ về đây. Nhà em ở trên ấy, em là công nhân. Mấy tháng nay chẳng có lương, các cháu đói quá, hai mẹ con em về quê để xin bầm ít ngô lên cho các cháu ăn, nhưng tàu đến đây muộn quá, không thể về được. Hai mẹ con định sáng mai về. Đang ngồi dựa vào tường thiu thiu ngủ thì mấy thằng móc túi nó móc hết tiền rồi… Giờ chẳng biết làm thế nào để về đây! Hu,…huu!
Đợi cho chị bớt xúc động, tôi hỏi:
- Quê chị ở đâu?
- Nhà em ở Minh Tân, gần đây thôi.
- Anh nhà mình làm gì hả chị?
- Chồng em là bộ đội, đóng mãi trên biên giới Lào Cai. Anh ấy đi bộ đội gần chục năm rồi. quanh năm suốt tháng trên ấy, có được về đâu.
Rồi vừa khóc vừa kể. Chị kể rằng chồng chị là một người quá thật thà, thật thà đến mức không thể tưởng tượng nổi. Tháng trước, anh ấy về mang cho mẹ con chị 3 cân đường. Anh bảo rằng đơn vị phân phối cho mỗi người 3 kg đường và 5 kg gạo, nhưng vì không đủ tiền mua cả hai thứ, nên anh chỉ mua đường thôi. Chị bảo với anh: “Nhà đang đói, cần gạo chứ ai cần đường. Không có tiền, sao anh không bán đường đi mà mua gạo?” anh ấy bảo “Ai lại làm thế, anh em nó cười cho chứ”. Vì thế nên công việc gia đình chỉ một mình chị lo. Suốt mấy năm nay mấy mẹ con chị cứ tự làm, tự ăn nuôi nhau mà anh chẳng giúp được gì nhiều.
Lời bộc bạch của chị khiến tôi suy nghĩ. Đúng thật, hầu hết những người lính đều như vậy. Cuộc sống đã rèn cho họ một cách sống đơn giản, không suy tính thiệt hơn, không bon chen, tính toán. Họ sống vô tư với công việc của mình và giao phó mọi công việc ở nhà lên vai người vợ. Thấy tình cảnh mẹ con chị quá khó, tiền không còn để về quê và mua vé ngược Phú Thọ, tôi móc tay vào túi sau, lôi mớ tiền lộn xộn trong túi ra đếm. Tất cả còn hai mươi tám nghìn. Đưa cho chị hai mươi nghìn, tôi nói:
- Chị ơi, em không có nhiều, em chỉ còn mấy chục nghìn thôi, em giữ lại mấy nghìn để về đơn vị. Em biếu chị với cháu chút tiền để hai mẹ con mua vé ngược Phú Thọ, xin chị nhận cho em.
- Không đâu chú ơi, tôi không thể nhận được. Chú là bộ đội, lấy đâu ra tiền mà nhận của chú.
Tôi nài nỉ thế nào chị cũng không nhận. Cuối cùng, tôi đành phải nói:
- Thôi được rồi, chị không nhận thì em cho chị vay vậy. Chị cứ cầm đi, khi nào có chị có chị trả cho em cũng được.
Lúc cầm mấy đồng tiền tôi đưa, chị rơm rớm khóc. Rồi chị nói chị tên là Ban, công nhân Xí nghiệp may 27/7 Phú Thọ. Chị hẹn tôi khi nào có dịp lên Phú Thọ, đến nhà chị chơi. Đến khu tập thể xí nghiệp, cứ hỏi chị Ban thì ai cũng biết.
Tôi chào chị và hứa khi nào có dịp sẽ lên thăm chị và gia đình.
***
Hơn ba giờ sáng.
Sau khi hai mẹ con chị Ban đã bớt hoảng sợ, mọi người cũng tản ra không còn túm tụm bàn tán nữa, tôi chào chị và trở lại nhà ga để kiếm giấc ngủ.
Loay hoay mãi mà không biết ngủ kiểu gì, đành trải tấm nilon ra giữa nền nhà, cạnh một cụ già bán nước, hai vai quàng qua quai ba lô, tay ôm chiếc cặp tài liệu đặt trên bụng, tôi dặn cụ: "Bà ơi, con mệt quá, con ngủ chút nha, bà trông giúp con với". Bà cụ vốn quen cảnh này lắm rồi, nên bảo: "Chú cứ ngủ đi, có gì tôi gọi". Vậy là yên tâm rồi. Vừa nằm xuống là tôi chìm ngay vào giấc ngủ...
Ngày ấy, những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc chiến tại Campuchia vẫn rất khốc liệt. Biên giới Vị Xuyên vẫn ùng uỳnh suốt ngày. Nước ta bị cấm vận vì "xâm lược Campuchia”, nên kinh tế - xã hội rơi vào cuộc khủng hoảng hết sức trầm trọng. Phố phường, làng mạc điêu tàn, dân đói vàng mắt; trộm cắp, cướp giật hoành hành dữ dội. Ga Vĩnh Yên là trọng điểm hoạt động của bọn tội phạm, nên ngủ ở ga rất nguy hiểm. Biết vậy nhưng mệt quá nên tôi vẫn phải liều. Suốt cả tuần lang thang khắp nơi để xác minh lý lịch kết nạp đảng cho học viên. Hết xe ca lại chuyển sang tàu chợ. Từ Vĩnh Yên, tôi xuôi Hà Nội rồi mua vé lên tàu Hà Nội - Vinh. Tới Vinh lại mua vé xe ca lên Nghĩa Đàn. Từ Nghĩa Đàn theo xe ngược vào Hà Tĩnh rồi quay lại Vinh. Xong việc lại hành trình ngược ra... Cả tuần liền lên xe, xuống tàu nên việc ăn uống, ngủ nghê chẳng đâu vào đâu, giờ thấy mệt kinh khủng.
Đang ngon giấc, chợt thấy tiếng xì xèo bên tai. Rồi ai đó chạm vào sườn mình. Tôi mở mắt, thấy bốn, năm thanh niên đang ngồi quanh mẹt hàng của bà cụ. Có đứa ngồi hẳn vào tấm nilon của tôi, mông nó chạm vào người tôi ấm sực. Nhắm mắt giả vờ ngủ, tôi dỏng tai nghe chuyện chúng nó nói với nhau.
- Này thằng Sẹo. Đêm qua mày chôm được cái cặp, có cái gì không?
- Chẳng có cái quái gì. Mẹ kiếp, giật được cái cái cặp, tao nhào qua cửa sổ lăn xuống đường tàu, đau sắp chết mà lúc mở ra có mỗi mấy bộ quần áo cũ, mấy cái sơ chiêng, sơ líp lằng nhằng, hai cái bánh mỳ với một hộp sữa. Tao chỉ lấy bánh với sữa, còn lại quẳng mẹ xuống đường tàu. Tao với thằng Tiến ghẻ chia nhau mỗi thằng cái bánh rồi chuồn...
Nghe chúng nói chuyện, tôi chột dạ, bởi biết chúng là bọn cướp giật trên tàu. Mình chẳng có gì đâu, nhưng vất vả cả tuần mới xong mấy bản xác minh, giờ mà mất thì toi, ăn cảnh cáo là cái chắc. Nghĩ vậy, tôi liền bật dậy. Không nhìn chúng nó, tôi nói với cụ:
- Bà ơi, cho con xin chén nước.
Nói xong, mở túi áo ngực lấy bao thuốc, tôi châm một điếu, rít một hơi rồi bắt chuyện với thằng ngồi gần nhất.
- Các em làm nghề này có nguy hiểm không? Có “kiếm” được không?
Có lẽ thấy tôi là bộ đội, lại quân hàm quân hiệu đàng hoàng. Trên ve áo có phù hiệu xe tăng nữa, nên chúng cũng nể. Một thằng lên tiếng:
- Ôi ông anh ơi. Đói đầu gối phải bò thôi, chứ nguy hiểm lắm. Tàu đang chạy bốn năm chục cây số mà “ôm” được hàng, nhảy xuống, không cẩn thận có khi vỡ đầu ấy chứ. Hôm nào kiếm được thì có mấy bữa no, chứ không kiếm được thì đói nhăn răng, chẳng có gì mà nhét vào mồm đâu anh ạ.
Thằng khác tiếp lời:
- Chuyện ấy đơn giản nha. Sợ nhất là bị "cớm" túm. Có mà no đòn. Thằng này này anh - vừa nói, tay nó vừa chỉ vào một thằng ngồi đối diện - nó mới được tha hôm kia đấy. Vào trại, chúng nó đánh cho nhừ tử chứ đùa được à.
Nghe chúng nói mà tôi thấy ớn. Hóa ra cuộc đời cũng nhiều cảnh éo le. Ai chẳng muốn tốt muốn giòn. Chúng nó cũng giống những đứa em mình, nhưng vì hoàn cảnh mà bỏ học, mải chơi rồi a dua theo phường trộm cướp nên mới đến nông nỗi này. Chuyện một lát, đôi mắt tôi díp lại. Bụng thì đói mà chẳng có cái gì ăn vì hàng quán đóng hết rồi. Rít một hơi thuốc thật dài rồi lấy can đảm tôi nói với chúng nó:
- Này các em. Anh là bộ đội ở Trường 600 trong xã Kim Long, cây số 6 đây thôi. Anh đi công tác về, mới xuống tàu nhưng khuya quá nên phải nghỉ lại...
Mới nói đến đó thì một thằng ngắt lời:
- Anh muốn ngủ chứ gì? Anh sợ bọn em lấy đồ của anh chứ gì? Yên tâm, anh ngủ đi, bọn em trông cho. Không đứa nào dám lấy của anh đâu mà sợ. Nếu mất em xin chịu trách nhiệm.
Chẳng còn biết nói gì nữa, tôi bảo:
- Thế thì anh ngủ nhé, các em trông giúp anh với...
Nói xong, tôi gối đầu lên ba lô, chứ không dám khoác vào vai như trước nữa kẻo chúng nó nghĩ là không tin chúng. Tay vẫn ôm chiếc cặp trên bụng, tôi nằm ngửa, đánh một giấc không biết trời đất đâu nữa.
Mãi sáng bảnh mắt, tôi vẫn đang mơ. Trong giấc mơ, tôi nghe thấy tiếng "quẹt, quẹt..." rất to mà không biết âm thanh đó là cái gì. Mở mắt dậy, cả nhà ga không một bóng người. Bà cụ bán hàng và cả lũ trộm cắp đêm qua ngồi quanh chỗ tôi ngủ đã đi đâu hết. Một mình tôi nằm trơ giữa nền ga ướt nhoẹt. Tại khu vực bán vé lên tàu, một chị lao công đang đưa những nhát chổi bằng lá cọ to tướng lướt trên nền nhà “quẹt, quẹt…”. Thì ra âm thanh tôi nghe thấy trong giấc mơ là tiếng chổi này đây. Chắc thấy tôi ngủ ngon nên chị chưa nỡ gọi tôi dậy...Nhìn quanh quất, mọi thứ vẫn còn nguyên, ba lô, cặp tài liệu, đồng hồ và cả đôi giày "cô sơ gin" của sỹ quan xe tăng tôi để cạnh tấm nilon vẫn còn nguyên vẹn.
Khoác ba lô lên vai, tôi lần ra phố, kiếm bát phở rồi cuốc bộ về đơn vị. Trên đường đi, tôi lang thang nghĩ về những sự kiện xảy ra đêm qua. Thầm cám ơn những "anh bạn" mới quen trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt trong đêm. Và tôi hiểu, ngay cả những kẻ xấu nhất, táng tận lương tâm nhất, phần "người" trong họ vẫn rất đáng trân trọng, nếu ta biết đánh thức nó.
Con đường từ ga Vĩnh Yên về đơn vị hôm đó dường như ngắn lại.
***
Bẵng đi mấy năm, câu chuyện tại nhà Ga Vĩnh Yên hôm nào đã nhạt nhòa trong tâm trí của tôi.
Tháng 8 năm 1986, tôi được phân công lên thị xã Phú Thọ coi thi tuyển sinh quân sự. Lần trong ký ức, bỗng nhớ đến lời hẹn với chị Ban rằng nếu có dịp lên Phú Thọ, nhất định tôi sẽ đến thăm chị. Trong thâm tâm, tôi cũng muốn biết cuộc sống của gia đình chị sau mấy năm đói kém, hiện giờ có thay đổi gì không.
Một buổi chiều, sau giờ coi thi, theo địa chỉ của chị cho biết đêm ấy, tôi tìm về khu tập thể Xí nghiệp may 27 tháng 7. Đó là một khu tập thể tồi tàn, gồm hàng chục dãy nhà cấp 4 được xây hết sức đơn giản có tuổi đời dễ đến cả chục năm. Nhìn những ngôi nhà thấp tè, lợp bằng giấy dầu, dành cho những người lao động nghèo dưới thời bao cấp, đằng trước, đằng sau là những giàn mướp, giàn bầu với nhiều hình dáng, cao thấp khác nhau, những dây phơi quần áo lộn xộn và nhếch nhác,… Có cái gì đó khiến tôi cảm thấy ngại ngần.
Căn phòng của chị nằm ngay đầu dẫy tập thể nên thật dễ tìm. Lúc tôi đến, chị và mấy đứa con đang làm gì đó ngay trước cửa nhà. Tôi chào chị nhưng hình như chị chưa nhận ra. Đến khi tôi nhắc, tôi đã gặp chị trong đêm chị đưa con về quê năm nào và bị mất trộm tại ga Vĩnh Yên thì chị mới nhớ. Chị ào đến, vồ lấy tay tôi:
- Chú Minh phải không? Ôi giời ơi, chú không nói thì chị cũng chẳng thể nào mà nhận ra được, hôm ấy trời tối quá mà chị thì cứ cuống lên vì sợ. Chú vào đây, vào đây chú…
Nói đến đó, chị gọi mấy đứa con với giọng hổn hển như sợ tôi đi mất:
- Lan ơi, Hùng ơi,…đứa nào đi gọi bố mày về đi, bố mày đang chơi ở nhà bác Lân đấy. Nói với bố rằng phải về ngay, có chú Minh đến chơi.
Chị kéo tay tôi vào nhà. Một gian nhà thấp tè, thiếu sáng, được cơi nới cả phía trước lẫn phía sau, tạo thành một cái ống sâu hun hút. Ánh sáng cuối chiều khiến cái ống đã tối lại càng thêm tối. Nửa ngoài gian nhà kê bộ bàn ghế được làm bằng gỗ bạch đàn bạc phếch và một chiếc tủ ly đã cũ. Mấy chiếc chén uống nước cáu bẩn nằm lăn lóc trên chiếc đĩa tráng men. Chị cuống quýt lau rửa ấm chén, rồi pha ấm trà mới. Vừa làm chị ríu rít hỏi thăm tôi, hỏi tôi làm thế nào mà tìm được nhà chị. Nét mặt chị rạng rỡ chứ không khắc khổ như đêm trên sân ga hôm nào.
Lát sau, chồng và mấy đứa con chị cùng về. Một người đàn ông trạc 50 tuổi, khuôn mặt xạm đi vì nắng gió nhưng toát lên vẻ cương nghị với nụ cười thật hiền. Anh chống nạng, bước đi thập thõm. Chị ra đỡ anh vào rồi ríu rít nói:
- Em giới thiệu với anh, đây là Chú Minh, người đã giúp đỡ mẹ con em ở ga Vĩnh Yên mà em đã kể với anh đấy. Còn đây là anh Tiến, chồng chị. Anh là thương binh hạng 2, mới được phục viên năm kia… Thôi, chú ngồi uống nước với anh nhé, chị xuống bếp nấu cơm. Hôm nay nhất định chú phải ở đây ăn cơm với anh chị và các cháu đấy.
Chị cười thật tươi rồi xăng xái đi vào phía trong. Tôi nhận lời, bởi không nỡ chối từ lời mời rất thân tình của chị.
Chị đi rồi. Anh bỏ nạng, ngồi xuống chiếc ghế đối diện với tôi rồi tự tay rót nước mời tôi. Với tay lấy chiếc điếu, anh rít một hơi thật dài, thả khói bay lên rồi thong thả:
- Anh cám ơn chú và rất trân trọng sự giúp đỡ của chú với vợ con anh trong lúc hoạn nạn ấy. Anh hiểu, chỉ những người lính mới cảm thông với hoàn cảnh của đồng đội và có những hành động như vậy.
Những lời anh nói khiến tôi cảm động. Khi đất nước có chiến tranh, gần như tất cả đàn ông phải cầm súng ra trận, để lại vợ con ở nhà, rau cháo nuôi nhau. Bên cạnh sự thiếu thốn về tình cảm là sự thiếu hụt về kinh tế, gia đình nào cũng phải oằn mình để vượt qua. Nay yên hàn rồi mới có thể bắt tay vào làm lại thì khó trăm bề. Với hoàn cảnh của anh chị, không dễ để vượt lên được.
Dường như hiểu suy nghĩ của tôi, anh nói:
- Vừa rồi, anh đã vay được vốn bên ngân hàng rồi. Tới đây, anh sẽ mua một chiếc xe thương binh, chuyên chở hàng cho các chủ hàng ở chợ trung tâm thị xã. Phải cố thôi chú ạ, rồi cuộc sống sẽ ổn thôi chú. Những năm trên biên giới, đạn địch nó bắn rầm rầm ấy mình không chết thì bây giờ chết làm sao được. Còn người là còn của, phải không chú?
Anh cười với nụ cười rạng rỡ khiến tôi cảm thấy thật ấm lòng. Người lính đã bước qua chiến tranh, đã vượt qua hòn tên mũi đạn để trở về, thì không có gì là không thể làm được. Tôi tin rằng, cái đói, cái nghèo rồi sẽ phải rời xa gia đình anh chị.
Chuyện đến đó thì chị bưng cơm lên. Một mâm cơm thịnh soạn, có thịt gà luộc, canh cua, cà muối và một đĩa cá kho thơm nức. Mấy đứa trẻ chơi bên hàng xóm chạy về ùa vào mâm. Đứa so đũa, đứa xếp bát lấy cơm. Vừa làm, chúng vừa cãi nhau chí chóe. Chị Ban vui lắm, chị vào phòng trong mang ra một chai rượu, rót ra cho anh em tôi rồi đon đả:
- Mời chú, mời anh. Vui quá, trái đất bé thật. Chẳng bao giờ chị nghĩ là chú sẽ đến thăm, vậy mà hôm nay được gặp chú, không có niềm vui nào vui hơn, chú nhỉ. Nào, nâng cốc đi… Chú cứ tự nhiên nhé, thịt gà nhà nuôi, rau mồng tơi nhà trồng… có gì ăn nấy chú nhé.
Bữa cơm ngon quá. Đến hôm nay khi ngồi viết những dòng này, tôi vẫn như thấy như đang nâng cốc chúc mừng cuộc hội ngộ kỳ diệu hôm xưa.
Nguyễn Vũ Diền