Danh nhân Việt Nam tuổi Mão
Công Hiếu
Tựa như vai trò, ý nghĩa và giá trị đa dạng,
tích cực của loài mèo, tuổi Mèo (sinh năm Mão) thường được coi là tuổi linh
hoạt, nhạy bén, mưu lược, tài hoa, gặp nhiều may mắn và thành đạt. Phải chăng
vì thế, trong số những danh nhân ảnh hưởng lớn tới tiến trình lịch sử Việt Nam,
có khá nhiều vị tuổi Mão…
* TRẦN NHẬT DUẬT: Sinh năm Ất Mão 1255, quê Nam Định, con thứ 6
của vua Trần Thái Tông; danh tướng, người anh hùng trong trận Hàm Tử đánh giặc
Nguyên Mông (năm 1285). Chẳng những rất giỏi việc chính trị, quân sự, thông
thạo ngôn ngữ, phong tục tập quán của các sắc tộc trong và ngoài nước, mà ông
còn là nhà sáng tác âm nhạc, nhà văn xuất sắc. Từng phục vụ 4 triều vua Trần
(Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông), làm quan đến chức Thái sư (Tể
tướng), ông có nhiều công lao xây dựng và bảo vệ đất nước, đem lại an lành cho
dân.
* PHẠM NGŨ LÃO:
Sinh năm Ất Mão 1255, quê Hải Dương, danh tướng đời Trần. Giỏi cả văn -
võ, có chí lớn, được Trần Hưng Đạo tin cẩn gả con gái nuôi cho và tiến cử vào
triều làm tướng. Trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược
(năm 1285 và 1288), ông đều lập công lớn, được ban thưởng đặc biệt và thăng tới
Điện soái Thượng tướng quân. Bài “Thuật
hoài” của ông là một tác phẩm văn học nổi tiếng.
* NGHIÊM ÍCH KHIÊM: Sinh năm Kỷ Mão 1459, quê Bắc Ninh, danh
tướng thời Lê sơ. Văn võ toàn tài, nức tiếng thơ phú, ông hơn người sức khỏe và
thông hiểu binh pháp. Đỗ tiến sĩ năm 1490, làm quan văn ít lâu rồi chuyển sang
ban võ, giữ chức Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ. Ông và anh trai là Nghiêm Công Phụ
(cũng đỗ tiến sĩ, làm quan cùng triều) được người đời trọng vọng cả về tài lẫn
đức.
* MẠC ĐĂNG DUNG: Sinh năm Quý Mão 1483, quê Hải Dương, người
lập ra triều Mạc. Vốn nhà nghèo nhưng ông có chí lớn, sức khỏe phi thường, hay
đi đấu vật, thi lấy giải và làm nghề đánh cá để sống qua ngày. Năm 1516 (đời Lê
Chiêu Tông), thi võ đỗ Đệ nhất Đô lực sĩ, làm quan dần thăng đến Thái sư. Ngày
càng thâu tóm quyền lực, tới năm 1527 ông lật đổ được vua Lê, lập nên nhà Mạc
và trở thành vị vua đầu tiên của vương triều này.
* ĐÀO CÔNG CHÍNH: Sinh năm Kỷ Mão 1639, quê Hải Dương, danh
thần thời Lê trung hưng. Từ bé đã nổi tiếng thông minh, năm 12 tuổi đỗ hương
tiến (cử nhân), 22 tuổi đỗ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên). Năm 1667, ông được
cử làm Phó sứ sang Trung Quốc. Làm quan đến Tả Thị lang Bộ Lại, vào hầu kinh
diên. Ông còn cộng tác với một số đại thần, biên soạn bộ sách y học “Bảo sinh diên thọ toan yếu” rất giá
trị.
* NGUYỄN ĐĂNG ĐẠO: Sinh năm Tân Mão 1651, quê Bắc Ninh, danh sĩ
thời Lê trung hưng. Nổi tiếng văn thơ, năm 1682 đỗ hương tiến, năm sau đỗ nhất
giáp tiến sĩ, ông được bổ nhiệm vào Viện Hàn lâm, làm quan thăng tới Tham tụng
(tương đương Tể tướng). Đi sứ Trung Quốc 2 lần (năm 1687 và 1697), ứng đối cực
giỏi, khiến vua quan nhà Thanh nể phục, coi như trạng nguyên hai nước (lưỡng
quốc trạng nguyên). Ông từng cùng vợ đem hết tiền của dành dụm được cứu trợ dân
nghèo, lại sống rất cần kiệm liêm chính, tận tụy vì nước, nên được người đương
thời trọng vọng.
* NGUYỄN PHÚC CHU: Sinh năm Ất Mão 1675, quê Thanh Hóa, chúa thứ
6 nhà Nguyễn. Là người học rộng, hiểu nhiều, song toàn văn võ. Ông lên ngôi
chúa từ năm 16 tuổi, trị quốc, an dân, đối ngoại đều xuất sắc. Có công mở mang
bờ cõi phương Nam và lãnh hải, nâng cao nền giáo dục và trình độ quân sự nước
nhà. Thời ông cầm quyền, Nam - Bắc hòa bình được nhiều năm, dân sống yên ổn,
hạnh phúc. Ông là người có nhiều con nhất trong lịch sử Việt Nam (tất cả 146
người con!).
* NGUYỄN CÔNG CƠ: Sinh năm Ất Mão 1675, quê Hà Nội, danh thần
thời Lê mạt. Năm 22 tuổi đỗ tiến sĩ (là người giỏi nhất và trẻ nhất khoa này).
Năm 1715 được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, khi về ông được thăng Thượng thư
Bộ Binh. Năm 1720, xét thưởng quan lại có thành tích trong 10 năm, đứng đầu nên
được phong chức Đồng Tham tụng. Sau xin đổi sang ngạch võ, làm đến Thiếu bảo.
Tuy quyền cao chức trọng nhưng ông sống rất đức độ, liêm khiết, nổi tiếng thanh
bần.
* NGUYỄN THIẾP:
Sinh năm Quý Mão 1723, quê Hà Tĩnh, xử sĩ, danh sĩ, thời Lê mạt và Tây
Sơn. Năm 20 tuổi đỗ hương giải, làm quan ít lâu rồi từ quan, về ở ẩn trên núi
Thiên Nhận với nhiều tên hiệu. Nổi tiếng về tài năng thơ văn, tầm nhìn xa rộng
và khí phách quân tử, ông được những người đứng đầu ba triều đại đối nghịch
nhau (chúa Trịnh Sâm, Hoàng đế Quang Trung, vua Gia Long) đều kính trọng, mời
giúp việc chính trị. Nể lời mời chân thành nhiều lần của Quang Trung, ông ra
giúp nhà Tây Sơn, làm Viện trưởng Viện Sùng chính. Ông được coi là một “dị
nhân” trong lịch sử Việt Nam.
* LÊ QUANG ĐỊNH: Sinh năm Kỷ Mão 1759, quê Thừa Thiên-Huế,
văn thần thời Nguyễn sơ. Rất thông tuệ, hiếu học, ông kết bạn với Trịnh Hoài
Đức, Ngô Nhân Tịnh và sau này cả ba đều tiếng tăm lừng lẫy, được người đương
thời xưng tặng là “Gia Định tam gia”. Năm 1788, thi đỗ và làm quan cho chúa
Nguyễn tới chức Thượng thư Bộ Binh. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua (năm 1802),
ông được làm Chánh sứ đi Trung Quốc, lúc về thăng Thượng thư Bộ Hộ. Nổi tiếng
văn hay, chữ đẹp, hội họa giỏi, ông từng được vua Thanh khen ngợi tài năng và
năm 1806 được vua Nguyễn cử biên soạn bộ “Hoàng
Việt thống nhất dư địa chí”.
* NGUYỄN VĂN DỤC: Sinh năm Đinh Mão 1807, quê Quảng Nam, danh
sĩ thời Nguyễn sơ. Năm 1837 ông đỗ cử nhân, năm sau đỗ phó bảng, học vấn rất
uyên thâm và là nhà giáo dục lỗi lạc, từng dạy vua và các hoàng tử. Giới tri
thức Nho học đương thời coi ông là gương mẫu của ngành sư phạm.
* VÕ DUY THANH:
Sinh năm Đinh Mão 1807, quê Ninh Bình, chí sĩ thời Nguyễn sơ. Học rộng
biết nhiều, đỗ bảng nhãn nhưng đáng tài trạng nguyên nên được gọi là Trạng Bồng.
Ông là nhà cải cách lớn, từng nhiều lần dâng sớ xin tăng cường lực lượng quốc
phòng, chấn chỉnh việc nội trị, mở rộng bang giao, cải tổ giáo dục, văn hóa,
kinh tế… với những ý tưởng sâu sắc, xác đáng, tiến bộ. Ông còn có công phát
hiện và bồi dưỡng nhiều nhân tài cho đất nước.
* NGUYỄN PHÚC MIÊN THẨM: Sinh năm Kỷ Mão 1819, quê Thừa Thiên-Huế, con
trai thứ 10 của vua Minh Mạng; danh sĩ thời Nguyễn sơ. Nổi tiếng văn chương và
đức độ, khí tiết, ông rất được người đương thời ngưỡng mộ. Ông để lại một sự nghiệp
văn thơ đồ sộ với 18 tác phẩm chính.
* ÔNG ÍCH KHIÊM: Sinh năm Kỷ Mão 1831, quê Quảng Nam, danh
sĩ, võ tướng thời Nguyễn mạt. Tính khảng khái, cương trực, văn võ toàn tài. Năm
21 tuổi đỗ cử nhân, ông làm quan văn rồi quan võ. Rất giỏi nghệ thuật quân sự,
từng đích thân cầm quân dẹp tan nhiều cuộc phản loạn. Ông còn là tác giả của
một số bài thơ ý tứ đặc biệt sâu sắc, nặng tính thời cuộc.
* PHAN BỘI CHÂU: Sinh năm Đinh Mão 1867, quê Nghệ An, chí sĩ,
danh sĩ, nhà chính trị xuất sắc thời cận đại. Nổi tiếng thông minh từ nhỏ, năm
1900 đỗ giải nguyên trường thi Nghệ An. Nhiệt tình yêu nước, ngay năm 17 tuổi
đã hưởng ứng phong trào Cần vương, viết bài hịch “Bình Tây thu Bắc” rồi cùng bạn thành lập Đội Sĩ tử Cần vương tại
quê nhà. Năm 1904, ông vận động thành lập Hội Duy tân, năm sau sang Trung Quốc,
rồi Nhật Bản, gây dựng phong trào Đông du cứu quốc. Năm 1908, bị trục xuất khỏi
Nhật, ông trở lại Trung Quốc, rồi sang Thái Lan xây dựng căn cứ chính trị. Sau
Cách mạng Tân Hợi 1911 (Trung Quốc), thành lập Hội Việt Nam Quang phục; ông bị
bắt giam ở Quảng Châu. Ra tù, càng tích cực hoạt động, năm 1922 cải tổ Hội Việt
Nam Quang phục thành Đảng Việt Nam Quốc dân. Năm 1925, bị tay sai Pháp bắt cóc
ở Thượng Hải, đưa về nước, chịu án khổ sai chung thân. Nhân dân toàn quốc đấu
tranh đòi ân xá cho ông. Toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh giảm án,
giam lỏng ông ở Huế và ông sống tại đây đến cuối đời (năm 1940). Ông để lại
nhiều tác phẩm văn chương và báo chí giàu nhiệt huyết cách mạng, được phổ biến
sâu rộng trong quần chúng với sức lay động lớn.
* NGUYỄN ĐỔNG CHI: Sinh năm Ất Mão 1915, quê Hà Tĩnh, nhà văn
hóa danh tiếng thời hiện đại. Ông rất nhiệt tình với sự nghiệp vun đắp nền văn
hóa Việt Nam và đã có nhiều công lao, đóng góp lớp. Là giáo sư, trước năm 1945
từng tham gia hoạt động cứu quốc và sau đó tích cực hoạt động trong ngành, giữ
nhiều cương vị chủ chốt, ông là tác giả của nhiều công trình giá trị về văn
chương, báo chí, nghệ thuật dân gian và sử học.