RÈN LUYỆN SỨC KHỎE - THỂ HÌNH QUA THIỀN
Nguyễn Anh Tuấn
Thiền công đã du nhập vào Việt Nam như một liệu pháp mang lại sức khoẻ cho người tập. Từ lâu thiền công có mặt tại nhiều tỉnh thành ở nước ta. Thiền công là một trường phái thiền định với cơ chế tập luyện khắc khổ cùng việc ăn chay nhằm thanh tịnh cơ thể. Không nhất thiết bạn là người như thế nào cũng có thể tập Thiền công được miễn là bạn đam mê nó.
Với ưu điểm ít tất bật hơn, mang nhiều nét huyền bí với những bài thiền, siêu thoát ở cõi vô vi nên Thiền công được nhiều người chọn lựa trong phong trào làm đẹp.
Thiền công dành cho tất cả mọi người chứ không phải là môn thần thánh cao siêu gì, phải đòi hỏi sự dẻo dai của người tập. Mọi người nghĩ Thiền công là vắt chân lên cổ, cái gì đó rất phi thường như đi trên đinh, chạy trên lửa hay Thiền công chỉ dành cho người già với các bài tập thở và thiền, đó là những quan niệm sai lầm vì Thiền công được coi như một thứ đạo, không chỉ bằng những động tác mà giúp cho người ta cách sống, cách đối nhân xử thế và cả cách ăn uống.
Nhiều người có tâm lý đến với Thiền công với mục đích giảm cân, chữa bách bệnh nhưng theo lý giải của những người đã tập thì Thiền công giống như một phương thuốc chữa bệnh trị liệu toàn thân, như một vị thuốc đông y nghĩa là không đi chữa bệnh theo triệu chứng đau đâu chữa đấy mà là chữa bệnh tận gốc. Thiền công không thay đổi được phom người mà chỉ làm cho những ai đang béo trở nên béo đẹp hơn và biết yêu cơ thể mình.
- Thiền công hòa hợp giữa thần và xác
Theo tiếng Phạn (Ấn Độ), Thiền công có nghĩa là sự kết hợp hoặc hòa hợp. Nó tạo sự hài hòa giữa tinh thần và thể xác con người, giúp tái lập sự cân bằng cho những người đang mệt mỏi và căng thẳng vì nhịp sống hiện đại.
Thiền công bao gồm một hệ thống triết lý và những phương thức dắt con người đi đến sự hòa hợp: giữa thể xác, tình cảm và trí tuệ, giữa bản thân và môi trường và cuối cùng là giữa “cái tôi” và vũ trụ.Trong thời đại ngày nay, khi con người phải đối mặt với nhiều áp lực, Thiền công được biết đến như một phương pháp thể dục khá hoàn hảo, giúp vô hiệu hóa stress. Mặt khác, nếu quan niệm tuổi già là một quá trình xơ cứng, thì những động tác Thiền công có tác dụng làm mềm dẻo cơ thể, duy trì sự trẻ trung, thon thả và linh hoạt.
Các tư thế Thiền công được gọi là Asanas, gồm nhiều bài tập do các đạo sư xây dựng từ hàng nghìn năm trước, giúp đạt được sức khỏe cả về tinh thần lẫn thể xác. Từ Asanas hàm nghĩa là những tư thế thoải mái. Sự thoải mái không phải đợi đến một thời gian sau khi tập mà có thể cảm nhận được ngay sau khi thực hành mỗi động tác. Đây là điều khác biệt cơ bản giữa các bài tập Thiền công và một số phương pháp thể dục thể thao khác.
Nếu như các phương pháp thể dục thông thường chú tâm phát triển cơ bắp và sức mạnh bằng những động tác nhanh, mạnh và liên tục, thì Thiền công được thực hành chậm rãi, mềm dẻo, phối hợp với nhịp thở sâu và thời gian nghỉ ngơi giữa mỗi tư thế. Cách tập này không tạo áp lực cho tim mà còn có thể cung cấp thêm nhiều dưỡng khí cho máu và sinh lực cho các cơ quan, giúp năng lực được tích lũy nhiều hơn là tiêu tán.
Hình thức dễ nhận thấy ở Thiền công là những tư thế vặn người, cúi gập hoặc kéo giãn cơ thể. Chúng gây sức căng thích hợp trong thời gian nhất định trên một nhóm cơ, khớp hoặc dây chằng, đặc biệt là đối với những vùng mà sinh hoạt thường ngày không đủ tác động tới như cổ, vai, bụng. Sự căng giãn này làm tăng lưu lượng máu đến từng tế bào, kể cả các mạch máu ngoại biên, khiến ta có cảm giác ấm người, năng lượng lan tỏa, dễ đưa cơ thể vào tình trạng thư giãn sâu sau đó.
Đây cũng là lý do các đạo sư Thiền công khuyên người tập nên giữ cơ thể ở tư thế xác chết sau mỗi Asanas để có thể cảm nhận trọn vẹn lợi ích thư giãn của mỗi tư thế. Các tư thế Thiền công cũng gây ra sức ép cần thiết trên những cơ quan nội tạng và các tuyến nội tiết, có tác dụng xoa bóp nội tạng và điều hòa việc xuất tiết các kích thích tố, qua đó có thể tăng cường chuyển hóa, kiểm soát những cảm xúc và giúp cân bằng tâm lý.
Khi được thực hành nhuần nhuyễn, các Asanas sẽ làm mạnh cơ bắp, giúp các dây chằng đỡ bị căng cứng, kích thích tuần hoàn huyết, hoạt hóa các khớp và nhất là làm cho cột sống được dẻo dai, một điều kiện cần thiết để cơ thể giữ được sự trẻ trung linh hoạt. Có hàng nghìn Asanas khác nhau. Tuy nhiên, tùy theo nhu cầu và điều kiện cơ thể riêng, mỗi người chỉ cần tập một số động tác nhất định.
Một số Asanas không những có tác dụng trên hệ thần kinh, tuyến nội tiết mà còn tác động đến những vị trí dọc theo cột sống, được gọi là những Luân xa. Việc hoạt hóa và khai mở những Luân xa này có liên quan đến hoạt động của những dòng năng lượng trong cơ thể và cả việc bổ sung cho những dòng năng lượng đó. Nếu kích hoạt mà không biết cách kiểm soát, những dòng năng lượng này có thể gây ảnh hưởng không tốt cho người tập. Do đó, một số Asanas, kể cả một số phép thở cần được hướng dẫn bởi người thầy có kinh nghiệm. Tuy nhiên, vẫn có một số tư thế phổ thông hữu ích cho sức khỏe mà mọi người đều có thể tự tập luyện được.
Không tập Thiền công trên nệm dày để cột sống dễ được giữ thẳng. Không tập trực tiếp trên nền đất để cơ thể khỏi nhiễm hơi ẩm từ đất. Nên tập trên sàn hoặc ván có lót qua một lớp chăn, chiếu hoặc nệm mỏng.
Không tâp trong vòng 2 giờ sau khi ăn để khỏi ảnh hưởng tới sự tiêu hóa. Hơn nữa, khi bụng trống, cơ thể sẽ dễ thực hành các tư thế hơn. Không tập trong vòng 1/2 giờ trước khi ăn để giúp nội tạng và các tuyến nội tiết có thể hấp thu tối đa sinh lực do các bài tập mang lại.
Mỗi tư thế chỉ cần tập một vài lần. Giữa mỗi tư thế, nên hít thở sâu và nghỉ ngơi, thư giãn để bảo đảm cho cơ thể được thoải mái và năng lực được tích lũy.
Một tư thế có thể dễ với người này nhưng khó với người khác. Đối với người lớn tuổi lại càng khó. Tư thế càng khó đối với một người thì khi thực hành được, hiệu quả cải thiện sức khỏe sẽ càng cao. Các động tác cần thực hiện chậm để tránh gây trẹo gân, sai khớp hoặc những tổn thương khác. Việc tập luyện cần đều đặn, mỗi ngày tập một hoặc hai lần. Qua thời gian, cơ, khớp sẽ linh hoạt dần và tư thế sẽ hoàn chỉnh.
Hầu hết các tư thế căng giãn đều ảnh hưởng tới tử cung, nên những phụ nữ trong thời kỳ có kinh hoặc trong vòng 6 tháng trước và sau khi sinh không nên tập, ngoại trừ tư thế xác chết.
Ngưng thở và giữ nguyên tư thế một thời gian là đặc điểm của các Asanas. Yêu cầu này nhằm gia tăng sự trao đổi chất và phát huy hiệu lực căng giãn để hóa giải xơ cứng. Thời gian này dài ngắn tùy thuộc vào khả năng của mỗi cá nhân. Ngưng thở nhưng phải bảo đảm không nhức đầu, chóng mặt hoặc tim đập nhanh. Sau mỗi tư thế, phải tạo được sự thoải mái thay vì đau nhức, khó chịu. Kinh nghiệm cho thấy, trong khi hít vào sâu và dài, đến gần cuối của thì hít vào chỉ cần cố kéo dài thêm một chút. Kéo dài bằng cách dùng ý hơn là cố hít thêm vào.
Điều này có mục đích kéo dài hơi thở, vẫn giữ được thanh quản mở, đáp ứng được yêu cầu dài hơi, giữ yên tư thế một thời gian mà không làm đỏ mặt, không gây khó chịu cho tim do thanh quản đóng vì nín thở.
Tập Thiền công là thực hành sự hòa hợp. Trước nhất là sự hòa hợp giữa tinh thần và thể xác. Do đó, người tập cần tập trung chú ý vào từng động tác trong suốt quá trình luyện tập. Được như vậy, tự thân việc thực hành các tư thế cũng chính là hành
Thiền.
Nói đến dưỡng sinh, người ta thường nghĩ ngay đến các phương pháp luyện tập thân thể, như thái cực quyền, tọa thiền, tĩnh tọa, xoa bóp, bấm huyệt… Nhưng dưỡng sinh không chỉ bao gồm những nội dung như vậy. Và trên thực tế, chỉ chuyên tâm luyện tập theo những phương pháp trên, chưa chắc đã có thể đạt được mục đích tăng cường sức khỏe và kéo dài tuổi thọ.
Từ xưa, Đông y quan niệm rằng sức khỏe và tuổi thọ không chỉ liên quan đến tới các hoạt động sinh lý trong cơ thể con người; dưỡng sinh không chỉ bao gồm những phương pháp dưỡng sinh sinh lý. Sức khỏe và tuổi thọ có mối tương quan mật thiết với đời sống xã hội và hoàn cảnh tự nhiên. Do đó, ngay từ khi hình thành, Đông y đã được xây dựng theo mô hình tự nhiên – sinh học – tâm lý – xã hội.
Đó không phải là mô hình y học sinh học thuần túy của Tây y trong giai đoạn mới hình thành, và cũng có sự khác biệt với mô hình sinh học – tâm lý – xã hội trong y học hiện đại ngày nay. Vì mô hình của Đông y còn có thêm nhân tố “sinh thái”: Đông y luôn luôn nhìn nhận con người như một thành phần trong tự nhiên. Cơ thể người được nhìn nhận như một “hệ thống mở”; hoạt động sinh mệnh gắn liền với những biến đổi của môi trường, sinh thái và hợp thành một thể thống nhất (thiên nhân hợp nhất). Do đó, dưỡng sinh trong Đông y thực chất là khoa học tổng hợp, bao gồm cả triết học, luân lý đạo đức, kinh tế, chính trị, thậm chí cả nghệ thuật, chứ không đơn thuần là vấn đề sinh lý.
Đông y xem dưỡng sinh là bộ phận trọng yếu trong phòng chống bệnh tật, tăng cường sức khỏe, kiềm chế lão suy và kéo dài tuổi thọ. Dưỡng sinh bao gồm nhiều nội dung, cùng rất nhiều hệ thống thực hành khác nhau, nhưng phần lớn y gia từ xưa đều cho rằng: “Dưỡng sinh bất như dưỡng tính” (Dưỡng sinh không bằng dưỡng tính). “Dưỡng tính” bao quát cả vấn đề tu dưỡng đạo đức, di dưỡng tinh thần, cùng toàn bộ đời sống tình cảm của mỗi con người.
Trong “dưỡng tính”, người xưa chú trọng nhất tới 2 phương diện: “Điều nhiếp tình chí” và “Tu dưỡng đức hạnh”. Do sự biến động của tình chí và đạo đức có liên quan hết sức mật thiết tới sức khỏe tâm thần của mỗi con người.
“Tình chí” được Đông y quy nạp thành “thất tình” (7 loại tình cảm), bao gồm: hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh. “hỉ” là vui; “nộ” là tức giận; “ưu” là lo lắng; “tư” là nghĩ ngợi, “bi” là buồn; “khủng” là sợ hãi; “kinh” là sửng sốt quá mức.
“Thất tình” hình thành dưới tác động, những kích thích của các nhân tố từ bên ngoài; là phản ứng của cơ thể về phương diện tâm lý cũng như sinh lý. Trong những tình huống thông thường, chúng không gây nên bệnh. Nhưng khi những kích thích và phản ứng nói trên quá mạnh hoặc quá lâu dài, hoặc là cơ thể quá mẫn cảm, thì bệnh tật có thể phát sinh: quá vui thì hại “tâm”, tức giận thì hại “can”, nghĩ ngợi quá nhiều làm hại “tỳ”, u buồn thì hại “phế”, sợ hãi thì hại “thận”…
Dưỡng tính, nghĩa là điều hòa giữa tinh thần và tình cảm. Phép tắc quan trọng nhất là giữ cho tình chí được trung hòa; tức là giữ cho tinh thần và tình cảm ở trạng thái cân bằng. Làm được như vậy thì “chân khí” không bị nhiễu loạn, lục phủ ngũ tạng hoạt động điều hòa, “tà khí” từ bên ngoài không thể xâm nhập vào cơ thể. Nhờ vậy mà bệnh tật không thể phát sinh, cơ thể được khỏe mạnh và tuổi thọ kéo dài.
Trong “dưỡng tính”, việc tu dưỡng đức hạnh còn quan trọng hơn. Người thông hiểu dưỡng sinh, lấy tu dưỡng đức hạnh làm đầu và phối hợp với điều dưỡng thân thể. Có đức hạnh thì tâm lý được bình an, ý chí không bị rối loạn. Nhờ vậy mà khí huyết điều hòa, bệnh tật không thể phát sinh. Như Tôn Tư Mạc (581-682) đã nhận định: Dưỡng sinh là bồi dưỡng cho mình cái tính thiện. Bản tính đã thiện thì bệnh tật từ trong hay từ ngoài đều không sinh ra; biến loạn và tai họa cũng không có lý do phát sinh; đó chính là đạo lớn của phép dưỡng sinh… Còn đức hạnh chưa hoàn thiện, thì dù có uống đủ các thứ “kim đan”, cũng không thể kéo dài tuổi thọ. Bản thân Tôn Tư Mạc suốt cả cuộc đời đã kiên trì tu thân và di dưỡng đức hạnh, nên đã sống đến trăm tuổi vẫn khỏe mạnh sáng suốt, tiếp tục chữa bệnh cứu người, nghiên cứu y thuật và trước tác.
- Sống nhân từ tuổi thọ sẽ cao
Trong dưỡng đức, chữ “nhân” được y gia đặt lên hàng đầu. Khổng Tử không chỉ là vị giáo sư Nho học, mà còn là một nhà dưỡng sinh kiệt xuất; là người đầu tiên đã phát hiện và đề xướng chân lý: “nhân giả thọ” (người có đức “nhân”, có đạo đức, có tuổi thọ cao). Để giải thích và chứng minh cho luận điểm này, trong các tác phẩm của mình, Khổng Tử đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng và lý lẽ xác đáng.
Tại sao người có đức nhân, có đạo đức, lại có tuổi thọ cao? Đổng Trọng Thư, một triết gia kiêm dưỡng sinh gia nổi tiếng người Trung Quốc, đã giải thích: Người nhân đức sở dĩ có tuổi thọ cao, là vì không tham lam mà trong lòng luôn luôn thanh tĩnh, tâm bình hòa cho nên âm dương không bị mất cân bằng, nhờ vậy mà hấp thu được những thứ tinh hoa và cái đẹp trong trời đất để nuôi dưỡng và hoàn thiện thân thể.
Quan điểm “nhân giả thọ” đã được y gia trong suốt các đời sau phát huy, phát triển và đã trở thành một trong các bí quyết quan trọng nhất của dưỡng sinh trong Đông y học cho tới ngày nay. Để thực hành dưỡng đức, theo danh y Hoa Đà: người giỏi dưỡng đức, đầu tiên phải biết trừ “lục hại”, như vậy mới có thể bảo vệ được tính mệnh và sống tới trăm tuổi.
Muốn trừ lục hại, một là phải coi nhẹ danh lợi, hai là không say mê thanh sắc, ba là không tham lam vật dụng hàng hóa, bốn là bớt của ngon vật lạ, năm là không xu nịnh, sáu là không ghen ghét. Trong 6 thứ có hại đó, trừ “của ngon vật lạ” ra, 5 thứ hại khác đều liên quan đến vấn đề tu dưỡng đạo đức.
Trong phép dưỡng sinh của người xưa, vấn đề tu dưỡng đạo đức được đặt ở vị trí cao nhất. Vì người có nhân đức, thì trong lòng bình yên, tâm lý cân bằng ổn định và ý chí không rối loạn; nhờ đó âm dương luôn luôn cân bằng, khí huyết luôn điều hòa, nên chính khí đầy đủ và bệnh tật không thể phát sinh.
Cùng với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội ngày nay, yêu cầu của con người đối với sức khỏe càng cao, đồng thời quan niệm về sức khỏe cũng đã có rất nhiều biến đổi. Từ năm 1984, quan niệm về sức khỏe đã được mở rộng, y học bắt đầu chú ý hơn đối với các nhân tố tâm lý, xã hội và ảnh hưởng của chúng đối với sức khỏe và bệnh tật của con người. Do đó, năm 1984, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa: Sức khỏe không chỉ là không có bệnh tật (disease) hay suy nhược (infirmity), mà là một trạng thái hoàn hảo về thân thể, tinh thần và khả năng thích ứng xã hội.
Tới năm 1990, trong định nghĩa về sức khỏe, WHO còn đề xuất thêm khái niệm “sức khỏe đạo đức”: chỉ khả năng phân biệt thực giả, thiện ác, vinh nhục, đúng sai; biết kiềm chế và chi phối hành vi và suy nghĩ của mình, trong khuôn khổ các quy tắc đạo đức được xã hội chấp nhận; không gây tổn hại đối với người khác nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Dưỡng tính, dưỡng đức là vấn đề được Đông y coi trọng từ xưa và cũng là vấn đề có tính thời sự hiện nay. Trong tương lai, chắc rằng dưỡng tính và dưỡng đức sẽ ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong việc bảo vê sức khỏe của nhân loại.
Cách nói “Yoga” hay “Thiền Công” phát xuất từ Ấn Độ khoảng 6 đến 7 ngàn năm trước, tiếng nguyên thuỷ theo Sanskrit là”yuj” có nghĩa là kết hợp giữa linh hồn cá nhân (atma) và tinh tuý vũ trụ (paramatma).
Thiền Công được lập ra với mục đích đi tìm sự Khai Ngộ (Enlightenment), sau đó đã chuyển hóa thành nhiều môn phái Thiền công khác. Mỗi môn phái lại có những tư tuởng chỉ đạo khác nhau như Karma Yoga chú trọng vào sự Từ Bỏ Bản Ngã, Bhakti Yoga chú tâm về sự Dâng Hiến, Jnana Yoga, Raja Yoga chỉ quan tâm về Kiến Thức…
Những thế, thức tập luyện cũng khác nhau, có thể bất động, hay động, mỗi thế, thức lại biến hoá thành nhiều kiểu dáng, khó có thể đếm đuợc hết mọi loại kiểu, thức. Sau khi được truyền qua các quốc gia khác, nhất là Tây Âu, Thiền Công tập trung nhiều về Chữa Bệnh, Điều Hòa Tâm Linh, tìm ra sự An Vui cho cá nhân một khi tâm thân hợp nhất, khỏe mạnh, và hạnh phúc.
Thiền Công hay Yoga hoàn toàn khác với Thiền hay Zen đặt trọng tâm vào sự suy tuởng có tính chất tôn giáo, nguyên thuỷ khai sinh từ Ấn Độ với tên gọi từ tiếng Sanskrit: “dhyàna”, triển khai tại Trung Hoa khoảng thế kỷ thứ 6 duới thời Tổ Sư Bồ Đề Lạt Ma (Bodhiharma) cũng đồng thời là Tổ Sư cuả môn phái Thiếu Lâm.
Vào thế kỷ thứ 9, Thiền được truyền bá sang Đại Hàn và được gọi là Seon. Thế kỷ thứ 12, Thiền được phát triển ở Nhật bởi Tổ Sư Myòna Eisai sau khi Ngài đến Trung Hoa rồi về nuớc, lập ra hệ phái Linji, còn gọi là Rinzai.
Ở Việt Nam, vào khoảng cuối thế kỷ 16, Thiền Sư Tì Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) nguời Ấn Độ đến Việt Nam phổ biến về Thiền, và dưới thời Ngài Thiền Sư Vạn Hạnh, Thiền đuợc phát huy mạnh mẽ nhất cho đến ngày nay.
Trên thế giới, hiện tại, những hình thức về Thiền rất đa dạng. Ngoài Tu Thiền (Thiền Tông), những nguời thực tập Thiền còn thể hiện Thiền trên hội hoạ (Tranh Thiền), thi ca (Thơ Thiền), cắm hoa (Thiền Hoa), trang trí (vuờn Thiền), hay kiến trúc theo Thiền…
Thiền Công (Thiền là sự tập trung tư tưởng, Công là sự vận dụng sức lực tinh thần hay vật chất), để tránh sự ngộ nhận với Tu Thiền. Thiền Công có 4 thế: Ngồi, Nằm, Quỳ, Đứng. Mỗi thế lại có 4 thức. Thiền Công nên được tập nơi thanh vắng, không khí mát mẻ, thanh khiết càng tốt. Mỗi ngày tập khoảng 1 tiếng đồng hồ, chỉ trong vòng 1 tháng, cơ thể và tinh thần sẽ đổi khác, tươi trẻ hơn, khỏe mạnh hơn, làm việc bền bỉ hơn, hạnh phúc hơn, và một số bệnh trong cơ thể có thể sẽ dần biến mất.
1-Toạ thiền: Ngồi xếp bằng tròn, không nhất thiết phải gác chân lên nhau, hai bàn tay để lên hai đầu gối, ngón trỏ và ngón cái cuả mỗi tay chạm nhau, lưng thật thẳng (Nếu ngồi cong lưng, sẽ bị đau lưng, vì xuơng sống sẽ bị cong, chạm vào dây thần kinh làm đau. Nếu không tự ngồi thẳng đuợc, thì ngồi sát tuờng, cho lưng dưạ vào tuờng.)
Nhắm mắt lại, tập trung tư tuởng, không nghĩ ngợi bất cứ điều gì, rồi hít vào thật chậm, khi hơi xuống tới bụng (đan điền) thì nén hơi lại và đếm 1,2,3 rồi từ từ thở ra. Trong khi hít vào và thở ra, phải tuởng tuợng đến luồng khí đi từ lỗ mũi vào trong ngực, xuống bụng, tuởng tuợng đến hơi thở đang nằm trong bụng, rồi tuởng tuợng đến hơi thở đang ra ngoài lỗ mũi. Những ngày đầu tiên, chưa quen, có thể cảm thấy hơi thốn lưng, nhưng dần sẽ quen và không thấy thốn lưng nưã. Hít thở từ 10 đến 20 lần.
Tư thế nêu trên trị bệnh tim, mạch, ổn định thần kinh, thăng bằng trí nhớ, chống sự hồi hộp, lo lắng, mất ngủ. Có nguời chỉ hít thở như thế hơn 10 lần đã ngủ gục. Tập chừng một tháng, trí óc minh mẫn, sáng suốt hơn gấp bội.
2- Bái Tổ: Cũng ngồi như trên, nhưng hai bàn tay chắp lại truớc ngực. Hít thở từ 10 lần trở lên. Tác dụng chữa bệnh giống như Tọa Thiền.
3- Hoành Thiền: Tư thế ngồi như trên, nhưng hai tay dang thẳng ngang ra hai bên. Hít thở tối đa 10 lần. Cùng một tác dụng như hai thế trên.
4-Trung Thiền: Ngồi cúi đầu xuống, nhìn vào bụng mình. Hít thở như trên. Chữa các bệnh về tiêu hoá. Làm 10 lần. Khi xong, phải xoay cổ vài lần từ phải sang trái rồi từ trái sang phải, cho cổ không bị xơ cứng.
1-Hổ Phục: Người tập quỳ úp trán xuống đất, hai tay để thẳng, cùi chỏ để trên đất, xoải dài trên đầu. Hít thở chừng 10 lần. Giúp ổn định tim, mạch, thần kinh. Khi quá mệt sau một công việc nặng, tập thể thao quá độ, đánh võ… chỉ cần quỳ xuống và hít thở trong vài phút là khoẻ lại ngay.
2-Thế Tàng Long: Quỳ áp một bên má xuống đất, nếu áp má bên trái xuống thì thọc tay trái qua duới nách của tay phải, nếu áp má bên phải xuống đất, thì thọc tay phải qua nách trái. Ép mình xuống thấp. Hít thở. Trị mất ngủ. Thay đổi tay từ trái sang phải, mỗi bên hít thở 10 lần.
3-Thế độc Long: Quỳ theo thế Hổ Phục, nhưng giơ một chân thẳng lên trời. Hít thở. Trị bệnh thiếu máu, hay xây xẩm, hay nhức đầu.
4-Thế thiềm Thừ: Qùy áp trán xuống đất, hai tay bỏ xuôi theo thân mình, hai bàn tay huớng về phiá bàn chân. Hít thở. Trị yếu tim, thần kinh.
1- Thế bình Sơn: Nằm ngửa, không gối, hai tay xuôi theo thân mình. Từ từ rút gót chân về, nhấc thân mình lên, chỉ bám trên đất bằng gót chân và hai vai, giữ trọng lượng ở thắt lưng. Hít thở chừng 5 lần thôi, không cố gắng quá. Trị đau bắp thịt thắt lưng, yếu sinh lý, nguời có hơi thở quá ngắn và gấp rút. (Thế này không áp dụng đuợc với nguời mổ xuơng sống, thay thận, tật xuơng sống bẩm sinh…)
2- Thế cung Tận: Nằm sấp, hai tay xuôi theo thân mình. Từ từ đầu và chân lên tạo thành hình cây cung, hít thở 3 lần rồi hạ đầu và chân xuống, nghỉ vài giây, lại cong lên, hít thở. Chưã đau thắt lưng, yếu sinh lý, lãnh cảm. (trừ người đang hoặc đã mổ xương sống.)
3-Thiên Vị: Nằm ngữa, không gối, hai tay xuôi theo mình, từ từ rút chân về gần mông, nhấc hẳn mông lên cao, mắt nhìn theo đùi, hít thở. Chưã yếu sinh lý, lãnh cảm, đau thắt lưng.
4-Phân Thân: Dành riêng trị bệnh mất ngủ. Nằm thẳng, không gối, hai tay xuôi theo mình. Nhắm mắt, hít thở chậm rãi chừng 10 lần, theo dõi hơi thở. Sau đó, tập trung tư tuởng, hít sâu tối đa, nén hơi, đếm 1,2,3, rồi thở ra chừng 10 lần nữa, bắt đầu “phân thân”, tức là chia mình ra làm hai. Tuởng tuợng “mình” đang đứng bên cạnh giuờng, ngó lại “mình” đang nằm trên giuờng. Ngó từ chân lên đầu. Truớc hết, ngó ngón chân cái, bên trái, cố nhớ lại những kỷ niệm xẩy ra ở ngón chân này (chẩy máu, sứt móng…) từ hồi còn nhỏ…
Hết ngón cái qua ngón bên cạnh, lần luợt ngó hết 5 ngón chân trái, qua bên chân phải, cũng đi từ ngón cái. Hết năm ngón chân, qua gót chân trái, gót chân phải, rồi lên mắt cá chân, lên cổ chân, lên ống quyển, đầu gối, lên đùi…
Hết một chân, qua chân kia. Hết chân, lên bụng, lên cổ, qua vai, xuống cánh tay, cùi chỏ, bàn tay… lộn lên tay kia… rồi tới cổ…mặt… Thuờng thì lên tới cánh tay, đã ngủ say… Ngủ kiểu này giúp tăng cuờng sức mạnh, an thần, không cần ngủ 7,8 tiếng mà vẫn khoẻ.
1-Bạch Hạc: Đứng thoải mái, hai tay chắp truớc ngực, từ từ giang tay ra hai bên, cúi nguời về truớc, rồi cong dần cho mặt gần như song song với mặt đất, trong khi một chân giơ lên ngang với mặt đất. Giữ sức nặng toàn thân trên một chân. Hít thở. Trị bệnh tim, mạch, cao mỡ, cao máu.
2-Độc Kê: Đứng thoải mái, hai tay chắp truớc ngực, từ từ co chân trái lên, gác bàn chân trái vào sau bắp vế chân phải, hai tay từ từ giang ngang ra hai bên. Hít thở. Trị bệnh tim, mạch, cao mỡ, cao máu.
3-Kim Quy: Đứng áp sát vào tuờng, má trái áp vào tuờng, 10 đầu ngón chân cũng sát tuờng, tay trái thọc ngang, xuyên duới nách phải, hít thở. Đổi nguợc lại, áp má phải, thọc tay phải qua tay trái. Trị tim mạch.
4-Huớng Thiên: Đang đứng chân truớc chân sau, từ từ rùn chân truớc xuống, chân sau duỗi thẳng ra, cho thắt lưng thẳng, hai tay song song từ từ đưa về phía trước, hai bàn tay chụm lại, rồi đưa thẳng lên trời. Khi hai tay giơ lên, thì hít vào, nén hơi, rồi từ từ thở ra, xong thả nguời trở lại vị trí đầu. Tiếp tục nhịp nhàng như vậy 10 lần. Tăng cuờng sức mạnh toàn thân.
Theo The Wisdom of Yoga (P.R. Sarkar, Singapore, 1990)