ĐÓN TẾT Ở PAILIN
Nguyễn Vũ Điền
Chiều 26/01/1979, có điện từ Trung đoàn
chuyển xuống: “Chuẩn bị hành quân, tiến đánh Pai-lin”.
Ngay trong đêm, Ban Chỉ huy
Tiểu đoàn họp, bàn kế hoạch hành quân dưới
gầm một ngôi nhà hoang giữa phum Bahan.
Rừng
Khộp ở Pai-lin vừa cháy rụi sau một trận đánh
Pai-lin là một thị trấn ở phía tây nam tỉnh
Battambang (nay là tỉnh Pai-lin), giáp biên giới Thái
Lan. Nơi đây được mệnh
danh là “thành phố kim cương và sốt rét”.
Những năm cai trị Campuchia, Pol Pot đã bắt dân và binh lính lao động khổ sai,
khai thác các mỏ đá quý
tại đây với quy mô lớn, dùng đá đào được đổi lấy lương thực, vũ khí để đáp ứng
nhu cầu chiến tranh. Sau ngày
07/01/1979, Pai-lin đóng vai trò là trung tâm chỉ huy và hậu cần của địch, trở thành
cái túi đựng tàn quân Pol Pot
từ khắp nơi đổ về. Theo tin từ quân báo, hầu
hết những nhân vật đầu sỏ của chế độ diệt chủng khi đó đang có mặt tại Pai-lin. Pol-Pot
đã biến Pailin thành lá chắn thép cuối cùng để ngăn chặn các
cuộc tiến công của ta vào sào huyệt của chúng sau khi Phnom-Penh và Tà Sanh thất
thủ. Do vậy, cuộc tiến công giải phóng Pai-lin mang ý nghĩa hết sức quyết định.
Sư đoàn 5, được tăng cường Trung đoàn 66 (Quân
đoàn 3), vinh dự được giao nhiệm vụ tiêu diệt mục tiêu hiểm yếu này.
Sáng 27/01/1979, tức là ngày 29
Tết Kỷ Mùi (năm đó lịch thiếu, nên cũng là ngày cuối cùng năm âm lịch), toàn
Trung đoàn cấp tốc hành quân theo đường rừng, đảm nhiệm mũi vu hồi chiến dịch,
tiến đánh Pai-lin. Đường hành quân dài khoảng hơn 30km, xuyên qua những cánh rừng.
Trên bản đồ có vài ba dòng suối cạn, được vẽ bởi những nét không liền mạch.
Trinh sát xác định đó là những con suối một mùa, nghĩa là có nước trong mùa
mưa, nhưng mùa khô chỉ còn những vũng nhỏ, có thể lấy được. Lính tráng tinh lắm,
biết tình hình như thế, nên mặc dù đường dài, trời nắng nóng, mỗi người cũng chỉ
mang theo một bình tông nước, bởi họ hy vọng sẽ được bổ sung thêm nước dọc đường.
Trong trận này, tôi và Cương đảm bảo thông tin
cho Đại đội 12. Tôi khoác PRC.25 đi trước, Cương mang súng AK và bao tượng gạo
phía sau. Cả đội hình Trung đoàn với hàng ngàn người lầm lũi xuyên qua những cánh
rừng bị địch đốt cháy nham nhở, trong cái nắng gay gắt. Ai cũng lấm lem tro bụi,
bước đi trong cái nóng kinh người của ngày cuối năm. Đất cát dưới chân quấn lên
theo gió bay mù mịt. Đang cuối mùa khô, cũng là mùa khộp thay lá. Những cây khộp
đã trút hết lá xuống mặt đất, trên cây chỉ còn sót lại cành, cọng trơ trụi vươn
lên trời như những cánh tay đang cầu cứu. Dưới đất, những chiếc lá khộp xếp đầy
trên mặt cát, khô khốc, cong mình lên như những chiếc bánh đa. Bước chân của
lính vô tình giẫm lên mặt lá khiến những chiếc lá vỡ tan thành trăm mảnh. Âm thanh
vụn vỡ nghe giòn tan như khi nhai bánh đa trong miệng...
Càng về trưa, cái nắng càng gay gắt. Mỗi lần dừng
nghỉ, thay vì chỉ uống một nắp bình tông như mọi ngày, những người lính xa nhà,
nhớ quê, nhớ tết lại lê đít quần xuống mặt cát, dựa lưng trên nắp ba lô, ngồi
túm tụm nói chuyện tết nhà mình, quê mình. Ai cũng thấy nhớ nhà và hào phóng mời
nhau uống nước, tự thưởng cho mình vài ba nắp bình tông mà không cần nghĩ đến hậu
quả sau đó thế nào. Khoảng 1 giờ chiều, đoàn quân cắt ngang một con suối cạn
trên bản đồ. Những tưởng
có nước như nhận định của trinh sát, nhưng khi đến nơi chỉ có lòng suối cạn, với
hai hàng cây xanh thẫm, chằng chịt dây leo. Bộ đội nhào xuống lòng suối, sục sạo
ngược xuôi mà không hề thấy nước. Lòng suối in rõ những vết chân trâu bò và
muông thú còn sót lại trong lớp bùn khô, tạo thành những cái hố với muôn hình vạn
trạng như khuôn đúc trong lò. Đó cũng là lúc những chiếc bình tông của lính gần
như đã cạn. Cơn khát kéo đến mà trời thì cứ chang chang nắng, khiến cho những
người lính đã từng hiểu về mùa khô ở Campuchia bắt đầu lo lắng.
Tôi cũng theo mọi người chạy đi tìm nước, nhưng chạy
đi chạy rồi lại chạy về, chẳng hề thấy nước đâu. Nhìn quanh, thấy có mấy chàng
lính lấy dao găm phạt chéo những sợi dây rừng bên bờ suối, hứng ca phía dưới,
chờ từng giọt nước nhỏ xuống, rồi dốc ngược cái ca vào miệng mà không cần biết
là thứ nước ấy có uống được hay không. Một số người dùng xẻng đào xuống lòng suối
sâu hàng mét, nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy giọt nước nào. Nỗi sợ hãi bắt đầu
len lỏi trong ý nghĩ của mỗi người.
Trong đội hình, có một vài chiến sĩ bị ngất do
quá khát. Y tá phải dùng dịch truyền bón cho họ mỗi người một chút, giúp họ tỉnh
lại. Khoảng 3 giờ chiều, trời bỗng nổi giông. Mây từ đâu kéo đến đen kịt cả bầu
trời, sấm chớp vần vụ, gió nổi ào ào. Rồi mưa, những hạt mưa to tướng từ trên
trời đan chéo xuống mặt đất. Cát bỏng như rang nên hạt mưa rơi xuống không kịp
thấm đã biến mất. Đoàn quân trở nên nhộn nhạo, bộ đội khí thế hẳn lên, mấy
chàng lính nhanh nhảu cởi ba lô, lôi ra những tấm tăng to tướng, rồi chia nhau
túm lấy bốn góc để hứng nước mưa. Hàng chục chiếc tăng được giăng lên đón nước
dọc con đường. Những tiếng reo hò thật vô tư bật lên khi những giọt nước đầu
tiên rơi xuống tấm tăng. Nhưng hỡi ôi, trời như trêu ngươi những người lính. Chỉ
có vài giọt nước lộp độp rơi xuống, chưa đủ ướt tấm tăng thì trận mưa lại đột
ngột biến mất, giống như khi nó kéo đến. Trời lại trong xanh và nắng lại chói
chang. Ngay cạnh tôi, mấy người lính thở dài thườn thượt, cúi xuống liếm lên mặt
tấm tăng để kiếm những giọt nước chưa kịp khô. Tôi đi vượt qua họ. Bên đường, một
cậu lính trẻ quỳ xuống đất, lè lưỡi hứng một giọt nước long lanh đọng trên đầu
lá cỏ chưa kịp rơi xuống đất... Những hình ảnh ấy không hiểu sao cứ lưu mãi
trong trí nhớ, để hôm nay, khi ngồi viết những dòng này, nó vẫn hiện lên trong
ký ức của tôi như mới xảy ra hôm qua vậy.
Sau vài giọt mưa chưa đủ ướt đất, cái nóng trở
nên gay gắt hơn, dữ dội hơn. Bộ đội thực sự hoảng hốt, đội hình trở nên lộn xộn
và mất kiểm soát. Đội hình hành quân không còn giữ được nữa, mạnh ai nấy đi,
người nào còn sức thì cố đi lên phía trước, những người yếu hơn, mệt hơn thì tụ
lại phía sau. Rất nhiều người không thể bước được nữa, họ bỏ đội hình, nằm ngay
xuống mặt đất, đầu gối lên ba lô, mắt nhắm nghiền, đôi môi khô khốc, những hơi
thở trở nên gấp gáp. Tôi trộm nghĩ, nếu địch đánh vào đội hình lúc này thì chắc
chết, bởi hỏa lực lớn không thể lắp ráp được, mỗi bộ phận một nơi hoặc nếu có lắp
ráp xong cũng chẳng có đạn mà bắn. Nỗi sợ khiến tôi cố gắng chịu đựng.
Trong bình tông của tôi lúc ấy còn khoảng một
chén nước nhưng tôi vẫn cố để dành, không dám uống. Mỗi bước đi, tiếng nước va
vào thành bình tông lại lóc xóc bên hông, rất khó chịu. Mà thật lạ, mọi ngày
chưa bao giờ tôi nghe thấy tiếng nước lóc xóc trong bình tông. Vậy mà lúc này,
lúc tôi đang chìm vào cơn khát cháy môi, cháy lưỡi thì tiếng kêu của những giọt
nước cuối cùng trong cái bình tông sao mà nghe rõ thế, cứ lóc xóc, lóc xóc khiến
cơn khát càng trở nên dữ dội.Tôi bước đi như mộng du, đầu óc mụ mị, nặng trĩu, mắt
mờ đi và dần chìm vào giấc mơ. Tôi mơ được về nhà ăn tết. Nhưng không phải là
giò, chả, bánh chưng mà thấy mẹ và các em ào ra đón. ..Trong cơm mơ, tôi vục đầu
xuống cái hồ cạnh nhà, cái hồ mà hằng ngày cả làng vẫn ra đó tắm giặt và tưới
rau, uống lấy uống để. Cả người tôi chìm nghỉm trong nước, miệng tu ừng ực từng
ngụm lớn, uống đến no nê... mà miệng vẫn đắng ngắt.
Đang mơ, bỗng thằng Cương giật giật quai ba lô tôi,
thều thào: “Anh Điền, còn nước không cho em một ngụm?”. Nhìn khuôn mặt nó đỏ lựng
vì nắng, nhọ đen nhọ thỉu, méo xệch vì mệt, thương lắm nhưng vẫn phải động viên
nó: “Tao còn tí xíu thôi, nhưng tao cũng không uống, cố chịu. Khi nào sắp chết,
tao với mày sẽ chia nhau. Cố lên đi, có chết cũng chết trên đầu hàng quân Cương
ạ”. Nó cố nài nỉ, tôi vẫn kiên quyết không cho, cố giữ lấy những giọt nước cuối
cùng phòng khi không còn cơ hội sống. Nài không được, nó lại bỏ tôi, lùi lại
phía sau...
Nói thật là khi đó, tôi đã lờ mờ nghĩ đến cái chết,
nghĩ rằng sẽ chết khát giữa cánh rừng khộp đang cháy nham nhở ở mảnh đất này.
... Khi trời nhá nhem tối, từ đầu hàng quân có tin truyền xuống:
“Phía trước có nước”. Chúng tôi cũng truyền tiếp về phía sau mà không tin là thực.
Cái tin “có nước” làm cho những người lính bừng tỉnh, hy vọng sống trở nên mãnh
liệt, bước chân bộ đội dường như nhanh nhẹn hơn. Những người lính nằm dọc đường
hành quân cũng lồm cồm bò dậy, ôm súng lảo đảo bước theo đoàn quân. Họ tìm lại
đội hình rồi lê những bước chân nặng nề về phía trước. Dọc đường hành quân vẫn
chỉ có những cây khộp đang cháy dở, những bụi le đỏ quạch cháy nham nhở. Không
khí đặc quánh mùi khói, mùi bụi đường bay lên từ những bước chân của lính.
Nước, đúng rồi. Chỉ cần ghe thấy chữ “nước” là những
người lính có thêm nghị lực để đứng lên đi tiếp, chứ nào đã thấy nước đâu. Chiều
cuối năm. Hãy nhớ rằng đây là chiều tất niên chứ không phải một ngày bình thường.
Nếu không có chiến tranh, không có đầu rơi, máu chảy, thì giờ này, chúng tôi
đang đoàn tụ với gia đình, đang cùng mọi người náo nức chuẩn bị đón giao thừa.
Vậy mà... giờ này, chúng tôi đang phải hành quân trong cái nắng kinh người,
trong cơn khát khủng khiếp ở xứ sở hoàn toàn xa lạ này...
Từ phía sau, Cương lại cố vượt lên, đến bên tôi
nài nỉ. Tôi dừng lại, vặn nút bình tông, chắt nước ra một cách hết sức cẩn thận,
để không rớt đi một giọt nước quý giá nào. Tôi cố dốc, cố hứng mà mỗi thằng
cũng chỉ được một nắp bình tông. Chúng tôi chia nhau những giọt nước cuối cùng.
Những giọt nước ngọt lịm chưa vào đến miệng đã trôi ngay xuống cổ họng khô khốc.
Đi mãi vẫn chẳng thấy nước, đoàn quân lại mất dần
khí thế, những người lính bước đi trong đêm tối với cảm giác bất an. Những bước
chân dần chùng xuống, rã rời hơn…Phải tới hơn 10 giờ đêm mới có khẩu lệnh truyền
xuống: “Dừng lại, bố trí đội hình. Mỗi đại đội cử hai người đi lấy nước”. Vậy
là có nước thật rồi, sống rồi. Đoàn quân dồn lên. Tiếng gọi nhau í ới khắp cánh
rừng tối om.
Về đến điểm tập kết, bọn tôi mang máy trở về đội
hình Trung đội. Mắc xong chiếc võng tôi thiếp đi ngay. Một giấc ngủ say sưa như
chưa bao giờ được ngủ, mặc dù miệng vẫn khô khốc, đắng ngắt. Chẳng biết tôi ngủ
được bao lâu nhưng lúc tỉnh dậy, anh nuôi đã mang nước về rồi. Họ trút từ can
sang nồi quân dụng một thứ nước đục ngầu, sực mùi bùn và mùi phân động vật. Bất
kể là nước gì, có nước là sống. Tôi vục bát vào uống, uống kỳ no, kỳ chán cho
bõ cơn khát suốt một ngày dưới cái nắng khủng khiếp của xứ sở nổi tiếng nhiều
kim cương này.
Gần đến Giao thừa thì cơm chín. Cả Trung đội xúm
quanh nồi cơm với bát bột canh, xì xụp ăn trong ánh sáng lù mù của cái đèn pin
tháo pha ra để chia đều ánh sáng. Nồi không rửa, gạo không vo, và nước thì đầy
bùn nên bát cơm nhìn như bát đất, đầy sạn. Ăn mà không dám nhai mạnh vì sợ gãy
răng, đành nhếu nháo rồi nuốt chửng. Đúng Giao thừa cũng là lúc ăn xong. Thằng
Công điếc bê lên một nồi quân dụng nước sôi. Anh Lưu vục bát vào nồi, đưa lên định
chờ nguội để uống, nhưng màu nước đen sì, lại sực mùi tanh, nên không thể uống
nổi. Anh đổ bát nước vào nồi rồi gọi thằng Cánh: “Cánh, Cánh, mày sang ba lô của
tao, lấy trong túi cóc hộp sữa sang đây”.
Đây là sữa tiêu chuẩn tết. Phần của bọn tôi đã hết
lâu rồi, nhưng anh Lưu vẫn giữ hôm nay mới mở. Thằng Cánh đục hộp sữa, đổ cả
vào nồi, cầm vỏ hộp tráng một lần nữa rồi lấy đũa khoắng lên. Từ màu đen của
bùn, nồi nước biến thành màu trắng nhờ nhờ như cà phê sữa. Anh Lưu bảo: “Anh em
uống đi, uống mừng giao thừa. Chẳng ngọt đâu, nhưng nhìn thế này đỡ sợ”.
Chúng tôi uống nước bùn pha sữa. Thứ “cà phê sữa”
đặc biệt của lính Pai-lin, chúc mừng nhau nhân dịp năm mới và cùng nghe tiếng
pháo nổ ở Hà Nội, nghe Chủ tịch Tôn Đức Thắng đọc lời chúc Tết qua Đài Tiếng
nói Việt Nam.
Không còn khát, không còn đói nữa, nỗi nhớ nhà, nhớ bố mẹ, nhớ Tết quê hương lại
cồn lên trong tâm thức. Bố mẹ ơi, anh chị ơi, các em ơi, Tết năm nay nhà mình
ăn có to không? Chúng con vừa phải trải qua một trận khát khủng khiếp nhất
trong đời giữa chiều tất niên ở một vùng đất nổi tiếng nhiều kim cương của đất
nước Ăng-Co, bố mẹ ạ... Rồi giấc ngủ kéo đến thật nhanh. Ngủ để lấy sức mai còn
đánh giặc.