No title... No title... No title... No title...
image advertisement
image advertisement
Đón Tết ở Pailin
Lượt xem: 84

ĐÓN TẾT Ở PAILIN

                                                                                 Nguyễn Vũ Điền

Chiều 26/01/1979, có điện từ Trung đoàn chuyển xuống:Chuẩn bị hành quân, tiến đánh Pai-lin”. Ngay trong đêm, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn họp, bàn kế hoạch hành quân dưới gầm một ngôi nhà hoang giữa phum Bahan.

anh tin bai

Rừng Khộp ở Pai-lin vừa cháy rụi sau một trận đánh

Pai-lin là một thị trấn ở phía tây nam tỉnh Battambang (nay là tỉnh Pai-lin), giáp biên giới Thái Lan. Nơi đây được mệnh danh là “thành phố kim cương và sốt rét”. Những năm cai trị Campuchia, Pol Pot đã bắt dân và binh lính lao động khổ sai, khai thác các mỏ đá quý tại đây với quy mô lớn, dùng đá đào được đổi lấy lương thực, vũ khí để đáp ứng nhu cầu chiến tranh. Sau ngày 07/01/1979, Pai-lin đóng vai trò là trung tâm chỉ huy và hậu cần của địch, trở thành cái túi đựng tàn quân Pol Pot từ khắp nơi đổ về. Theo tin từ quân báo, hầu hết những nhân vật đầu sỏ của chế độ diệt chủng khi đó đang có mặt tại Pai-lin. Pol-Pot đã biến Pailin thành lá chắn thép cuối cùng để ngăn chặn các cuộc tiến công của ta vào sào huyệt của chúng sau khi Phnom-Penh và Tà Sanh thất thủ. Do vậy, cuộc tiến công giải phóng Pai-lin mang ý nghĩa hết sức quyết định.

Sư đoàn 5, được tăng cường Trung đoàn 66 (Quân đoàn 3), vinh dự được giao nhiệm vụ tiêu diệt mục tiêu hiểm yếu này.

      Sáng 27/01/1979, tức là ngày 29 Tết Kỷ Mùi (năm đó lịch thiếu, nên cũng là ngày cuối cùng năm âm lịch), toàn Trung đoàn cấp tốc hành quân theo đường rừng, đảm nhiệm mũi vu hồi chiến dịch, tiến đánh Pai-lin. Đường hành quân dài khoảng hơn 30km, xuyên qua những cánh rừng. Trên bản đồ có vài ba dòng suối cạn, được vẽ bởi những nét không liền mạch. Trinh sát xác định đó là những con suối một mùa, nghĩa là có nước trong mùa mưa, nhưng mùa khô chỉ còn những vũng nhỏ, có thể lấy được. Lính tráng tinh lắm, biết tình hình như thế, nên mặc dù đường dài, trời nắng nóng, mỗi người cũng chỉ mang theo một bình tông nước, bởi họ hy vọng sẽ được bổ sung thêm nước dọc đường.

Trong trận này, tôi và Cương đảm bảo thông tin cho Đại đội 12. Tôi khoác PRC.25 đi trước, Cương mang súng AK và bao tượng gạo phía sau. Cả đội hình Trung đoàn với hàng ngàn người lầm lũi xuyên qua những cánh rừng bị địch đốt cháy nham nhở, trong cái nắng gay gắt. Ai cũng lấm lem tro bụi, bước đi trong cái nóng kinh người của ngày cuối năm. Đất cát dưới chân quấn lên theo gió bay mù mịt. Đang cuối mùa khô, cũng là mùa khộp thay lá. Những cây khộp đã trút hết lá xuống mặt đất, trên cây chỉ còn sót lại cành, cọng trơ trụi vươn lên trời như những cánh tay đang cầu cứu. Dưới đất, những chiếc lá khộp xếp đầy trên mặt cát, khô khốc, cong mình lên như những chiếc bánh đa. Bước chân của lính vô tình giẫm lên mặt lá khiến những chiếc lá vỡ tan thành trăm mảnh. Âm thanh vụn vỡ nghe giòn tan như khi nhai bánh đa trong miệng...

Càng về trưa, cái nắng càng gay gắt. Mỗi lần dừng nghỉ, thay vì chỉ uống một nắp bình tông như mọi ngày, những người lính xa nhà, nhớ quê, nhớ tết lại lê đít quần xuống mặt cát, dựa lưng trên nắp ba lô, ngồi túm tụm nói chuyện tết nhà mình, quê mình. Ai cũng thấy nhớ nhà và hào phóng mời nhau uống nước, tự thưởng cho mình vài ba nắp bình tông mà không cần nghĩ đến hậu quả sau đó thế nào. Khoảng 1 giờ chiều, đoàn quân cắt ngang một con suối cạn trên bản đồ. Những tưởng có nước như nhận định của trinh sát, nhưng khi đến nơi chỉ có lòng suối cạn, với hai hàng cây xanh thẫm, chằng chịt dây leo. Bộ đội nhào xuống lòng suối, sục sạo ngược xuôi mà không hề thấy nước. Lòng suối in rõ những vết chân trâu bò và muông thú còn sót lại trong lớp bùn khô, tạo thành những cái hố với muôn hình vạn trạng như khuôn đúc trong lò. Đó cũng là lúc những chiếc bình tông của lính gần như đã cạn. Cơn khát kéo đến mà trời thì cứ chang chang nắng, khiến cho những người lính đã từng hiểu về mùa khô ở Campuchia bắt đầu lo lắng.

Tôi cũng theo mọi người chạy đi tìm nước, nhưng chạy đi chạy rồi lại chạy về, chẳng hề thấy nước đâu. Nhìn quanh, thấy có mấy chàng lính lấy dao găm phạt chéo những sợi dây rừng bên bờ suối, hứng ca phía dưới, chờ từng giọt nước nhỏ xuống, rồi dốc ngược cái ca vào miệng mà không cần biết là thứ nước ấy có uống được hay không. Một số người dùng xẻng đào xuống lòng suối sâu hàng mét, nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy giọt nước nào. Nỗi sợ hãi bắt đầu len lỏi trong ý nghĩ của mỗi người.

Trong đội hình, có một vài chiến sĩ bị ngất do quá khát. Y tá phải dùng dịch truyền bón cho họ mỗi người một chút, giúp họ tỉnh lại. Khoảng 3 giờ chiều, trời bỗng nổi giông. Mây từ đâu kéo đến đen kịt cả bầu trời, sấm chớp vần vụ, gió nổi ào ào. Rồi mưa, những hạt mưa to tướng từ trên trời đan chéo xuống mặt đất. Cát bỏng như rang nên hạt mưa rơi xuống không kịp thấm đã biến mất. Đoàn quân trở nên nhộn nhạo, bộ đội khí thế hẳn lên, mấy chàng lính nhanh nhảu cởi ba lô, lôi ra những tấm tăng to tướng, rồi chia nhau túm lấy bốn góc để hứng nước mưa. Hàng chục chiếc tăng được giăng lên đón nước dọc con đường. Những tiếng reo hò thật vô tư bật lên khi những giọt nước đầu tiên rơi xuống tấm tăng. Nhưng hỡi ôi, trời như trêu ngươi những người lính. Chỉ có vài giọt nước lộp độp rơi xuống, chưa đủ ướt tấm tăng thì trận mưa lại đột ngột biến mất, giống như khi nó kéo đến. Trời lại trong xanh và nắng lại chói chang. Ngay cạnh tôi, mấy người lính thở dài thườn thượt, cúi xuống liếm lên mặt tấm tăng để kiếm những giọt nước chưa kịp khô. Tôi đi vượt qua họ. Bên đường, một cậu lính trẻ quỳ xuống đất, lè lưỡi hứng một giọt nước long lanh đọng trên đầu lá cỏ chưa kịp rơi xuống đất... Những hình ảnh ấy không hiểu sao cứ lưu mãi trong trí nhớ, để hôm nay, khi ngồi viết những dòng này, nó vẫn hiện lên trong ký ức của tôi như mới xảy ra hôm qua vậy.

Sau vài giọt mưa chưa đủ ướt đất, cái nóng trở nên gay gắt hơn, dữ dội hơn. Bộ đội thực sự hoảng hốt, đội hình trở nên lộn xộn và mất kiểm soát. Đội hình hành quân không còn giữ được nữa, mạnh ai nấy đi, người nào còn sức thì cố đi lên phía trước, những người yếu hơn, mệt hơn thì tụ lại phía sau. Rất nhiều người không thể bước được nữa, họ bỏ đội hình, nằm ngay xuống mặt đất, đầu gối lên ba lô, mắt nhắm nghiền, đôi môi khô khốc, những hơi thở trở nên gấp gáp. Tôi trộm nghĩ, nếu địch đánh vào đội hình lúc này thì chắc chết, bởi hỏa lực lớn không thể lắp ráp được, mỗi bộ phận một nơi hoặc nếu có lắp ráp xong cũng chẳng có đạn mà bắn. Nỗi sợ khiến tôi cố gắng chịu đựng.

Trong bình tông của tôi lúc ấy còn khoảng một chén nước nhưng tôi vẫn cố để dành, không dám uống. Mỗi bước đi, tiếng nước va vào thành bình tông lại lóc xóc bên hông, rất khó chịu. Mà thật lạ, mọi ngày chưa bao giờ tôi nghe thấy tiếng nước lóc xóc trong bình tông. Vậy mà lúc này, lúc tôi đang chìm vào cơn khát cháy môi, cháy lưỡi thì tiếng kêu của những giọt nước cuối cùng trong cái bình tông sao mà nghe rõ thế, cứ lóc xóc, lóc xóc khiến cơn khát càng trở nên dữ dội.Tôi bước đi như mộng du, đầu óc mụ mị, nặng trĩu, mắt mờ đi và dần chìm vào giấc mơ. Tôi mơ được về nhà ăn tết. Nhưng không phải là giò, chả, bánh chưng mà thấy mẹ và các em ào ra đón. ..Trong cơm mơ, tôi vục đầu xuống cái hồ cạnh nhà, cái hồ mà hằng ngày cả làng vẫn ra đó tắm giặt và tưới rau, uống lấy uống để. Cả người tôi chìm nghỉm trong nước, miệng tu ừng ực từng ngụm lớn, uống đến no nê... mà miệng vẫn đắng ngắt.

Đang mơ, bỗng thằng Cương giật giật quai ba lô tôi, thều thào: “Anh Điền, còn nước không cho em một ngụm?”. Nhìn khuôn mặt nó đỏ lựng vì nắng, nhọ đen nhọ thỉu, méo xệch vì mệt, thương lắm nhưng vẫn phải động viên nó: “Tao còn tí xíu thôi, nhưng tao cũng không uống, cố chịu. Khi nào sắp chết, tao với mày sẽ chia nhau. Cố lên đi, có chết cũng chết trên đầu hàng quân Cương ạ”. Nó cố nài nỉ, tôi vẫn kiên quyết không cho, cố giữ lấy những giọt nước cuối cùng phòng khi không còn cơ hội sống. Nài không được, nó lại bỏ tôi, lùi lại phía sau...

Nói thật là khi đó, tôi đã lờ mờ nghĩ đến cái chết, nghĩ rằng sẽ chết khát giữa cánh rừng khộp đang cháy nham nhở ở mảnh đất này. 

 ... Khi trời nhá nhem tối, từ đầu hàng quân có tin truyền xuống: “Phía trước có nước”. Chúng tôi cũng truyền tiếp về phía sau mà không tin là thực. Cái tin “có nước” làm cho những người lính bừng tỉnh, hy vọng sống trở nên mãnh liệt, bước chân bộ đội dường như nhanh nhẹn hơn. Những người lính nằm dọc đường hành quân cũng lồm cồm bò dậy, ôm súng lảo đảo bước theo đoàn quân. Họ tìm lại đội hình rồi lê những bước chân nặng nề về phía trước. Dọc đường hành quân vẫn chỉ có những cây khộp đang cháy dở, những bụi le đỏ quạch cháy nham nhở. Không khí đặc quánh mùi khói, mùi bụi đường bay lên từ những bước chân của lính.

Nước, đúng rồi. Chỉ cần ghe thấy chữ “nước” là những người lính có thêm nghị lực để đứng lên đi tiếp, chứ nào đã thấy nước đâu. Chiều cuối năm. Hãy nhớ rằng đây là chiều tất niên chứ không phải một ngày bình thường. Nếu không có chiến tranh, không có đầu rơi, máu chảy, thì giờ này, chúng tôi đang đoàn tụ với gia đình, đang cùng mọi người náo nức chuẩn bị đón giao thừa. Vậy mà... giờ này, chúng tôi đang phải hành quân trong cái nắng kinh người, trong cơn khát khủng khiếp ở xứ sở hoàn toàn xa lạ này...

Từ phía sau, Cương lại cố vượt lên, đến bên tôi nài nỉ. Tôi dừng lại, vặn nút bình tông, chắt nước ra một cách hết sức cẩn thận, để không rớt đi một giọt nước quý giá nào. Tôi cố dốc, cố hứng mà mỗi thằng cũng chỉ được một nắp bình tông. Chúng tôi chia nhau những giọt nước cuối cùng. Những giọt nước ngọt lịm chưa vào đến miệng đã trôi ngay xuống cổ họng khô khốc.

Đi mãi vẫn chẳng thấy nước, đoàn quân lại mất dần khí thế, những người lính bước đi trong đêm tối với cảm giác bất an. Những bước chân dần chùng xuống, rã rời hơn…Phải tới hơn 10 giờ đêm mới có khẩu lệnh truyền xuống: “Dừng lại, bố trí đội hình. Mỗi đại đội cử hai người đi lấy nước”. Vậy là có nước thật rồi, sống rồi. Đoàn quân dồn lên. Tiếng gọi nhau í ới khắp cánh rừng tối om.

Về đến điểm tập kết, bọn tôi mang máy trở về đội hình Trung đội. Mắc xong chiếc võng tôi thiếp đi ngay. Một giấc ngủ say sưa như chưa bao giờ được ngủ, mặc dù miệng vẫn khô khốc, đắng ngắt. Chẳng biết tôi ngủ được bao lâu nhưng lúc tỉnh dậy, anh nuôi đã mang nước về rồi. Họ trút từ can sang nồi quân dụng một thứ nước đục ngầu, sực mùi bùn và mùi phân động vật. Bất kể là nước gì, có nước là sống. Tôi vục bát vào uống, uống kỳ no, kỳ chán cho bõ cơn khát suốt một ngày dưới cái nắng khủng khiếp của xứ sở nổi tiếng nhiều kim cương này.

Gần đến Giao thừa thì cơm chín. Cả Trung đội xúm quanh nồi cơm với bát bột canh, xì xụp ăn trong ánh sáng lù mù của cái đèn pin tháo pha ra để chia đều ánh sáng. Nồi không rửa, gạo không vo, và nước thì đầy bùn nên bát cơm nhìn như bát đất, đầy sạn. Ăn mà không dám nhai mạnh vì sợ gãy răng, đành nhếu nháo rồi nuốt chửng. Đúng Giao thừa cũng là lúc ăn xong. Thằng Công điếc bê lên một nồi quân dụng nước sôi. Anh Lưu vục bát vào nồi, đưa lên định chờ nguội để uống, nhưng màu nước đen sì, lại sực mùi tanh, nên không thể uống nổi. Anh đổ bát nước vào nồi rồi gọi thằng Cánh: “Cánh, Cánh, mày sang ba lô của tao, lấy trong túi cóc hộp sữa sang đây”.

Đây là sữa tiêu chuẩn tết. Phần của bọn tôi đã hết lâu rồi, nhưng anh Lưu vẫn giữ hôm nay mới mở. Thằng Cánh đục hộp sữa, đổ cả vào nồi, cầm vỏ hộp tráng một lần nữa rồi lấy đũa khoắng lên. Từ màu đen của bùn, nồi nước biến thành màu trắng nhờ nhờ như cà phê sữa. Anh Lưu bảo: “Anh em uống đi, uống mừng giao thừa. Chẳng ngọt đâu, nhưng nhìn thế này đỡ sợ”.

Chúng tôi uống nước bùn pha sữa. Thứ “cà phê sữa” đặc biệt của lính Pai-lin, chúc mừng nhau nhân dịp năm mới và cùng nghe tiếng pháo nổ ở Hà Nội, nghe Chủ tịch Tôn Đức Thắng đọc lời chúc Tết qua Đài Tiếng nói Việt Nam.

Không còn khát, không còn đói nữa, nỗi nhớ nhà, nhớ bố mẹ, nhớ Tết quê hương lại cồn lên trong tâm thức. Bố mẹ ơi, anh chị ơi, các em ơi, Tết năm nay nhà mình ăn có to không? Chúng con vừa phải trải qua một trận khát khủng khiếp nhất trong đời giữa chiều tất niên ở một vùng đất nổi tiếng nhiều kim cương của đất nước Ăng-Co, bố mẹ ạ... Rồi giấc ngủ kéo đến thật nhanh. Ngủ để lấy sức mai còn đánh giặc.

 

Thông tin doanh nghiệp
  • Xây dựng mô hình “Bản du lịch xanh” trong Khu du lịch Quốc gia Mộc Châu, tỉnh Sơn La
  • Sơn La trong Chiến dịch Thượng Lào 1953
  • Hội thảo khoa học Mối quan hệ giữa trồng cây ăn quả với nghề nuôi ong mật trên địa bàn tỉnh Sơn La
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi tin rằng trong tương lai chắc sẽ có đại diện của thanh niên Việt Nam bay vào vũ trụ” ​
  • Liên hiệp Hội Sơn La: Gặp mặt kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5
  • Thư chúc mừng của Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam nhân Ngày KH&CN Việt Nam
  • Chi bộ Cơ quan Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sơn La tổ chức Lễ Trao Huy hiệu Đảng
  • Đại hội Công đoàn cơ sở Cơ quan Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sơn La, nhiệm kỳ 2023-2028
  • Các loại hệ thống quản lý tri thức
  • Truyền cảm hứng khởi nghiệp cho học sinh, sinh viên
  • Nghệ thuật nghi binh trong Chiến dịch Tây Nguyên ​
  • Quan hệ Việt Nam – Cuba: Hình mẫu của quan hệ quốc tế
  • Cuộc tản cư của đồng bào Sơn La trong kháng chiến chống Pháp (1947 – 1953)
  • Đẩy mạnh tuyên truyền tham gia Cuộc thi Sáng tạo Thanh thiếu niên, nhi đồng tỉnh Sơn La - năm 2023
  • Chỉ số CCHC và Chỉ số Hài lòng Sipas 2022 của tỉnh Sơn La
  • Kinh nghiệm sử dụng lãnh đạo chuyển đổi trong doanh nghiệp
  • Nhà ngục Sơn La- Di tích lịch sử đặc biệt
  • PAPI năm 2022 của Tỉnh Sơn La
  • Hội thảo khoa học “Chiến thắng thượng Lào 1953 - Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm” ​
  • PCI năm 2022 của tỉnh Sơn La
Tiêu điểm
Xem & Nghe
  • Sổ Hộ Khẩu, Sổ Tạm Trú Sẽ Hết Giá Trị Sử Dụng Sau Ngày 31/12/2022 | TVPL
1 
Bình chọn
Làm thế nào bạn tìm thấy trang web này?
  • Bình chọn Xem kết quả
    Thống kê truy cập
    • Đang online: 16
    • Hôm nay: 403
    • Trong tuần: 9 888
    • Tất cả: 13408380
    Đăng nhập
     
    image banner
     TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ NỘI BỘ CỦA LIÊN HIỆP CÁC HỘI KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT TỈNH SƠN LA
    Địa chỉ: 56A Đường Lò Văn Giá, Tổ 3, Phường Chiềng Lề, Thành phố Sơn La, Tỉnh Sơn La
    Điện thoại: 02123.858.268/ 02123.755.068             Fax:02123.755.068            Email: lienhiephoisonla@gmail.com
    Ghi rõ nguồn "Susta.vn" hoặc "Liên hiệp hội Sơn La" khi phát hành lại thông tin từ website này