Kỷ niệm 55 năm Tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân 1968
Chiến thắng buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược “chiến
tranh cục bộ” và làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải
xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.
Ảnh 1:
Người biểu tình phản chiến ở Mỹ với sự châm biếm: Đế quốc Mỹ và “Con rối Sài
Gòn”. Ảnh tư
liệu lịch sử.
Mỹ leo thang chiến tranh xâm lược tại
Việt Nam
Với sự hỗ trợ hàng tỷ USD của Mỹ trong cuộc chiến tranh
xâm lược của Pháp tại Đông Dương (1945-1954), tổng chỉ huy quân Pháp - tướng
Henri Navarre đã viết trong hồi ký rằng: “Địa vị của chúng ta đã chuyển thành
địa vị của một kẻ đánh thuê đơn thuần cho Mỹ”. Tuy nhiên, quân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “vang vọng năm châu, chấn động
địa cầu” (ngày 7/5/1954), đánh bại cố gắng cuối cùng của thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ. Tiếp đó, Hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Đông Dương (20/7/1954) đã được ký kết. Đây là văn kiện quốc tế đầu tiên, với sự
tham dự của 5 cường quốc thế giới (Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc), tuyên
bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam
cùng hai nước Lào và Campuchia.
Không cam
chịu thất bại, Mỹ đã quyết định hất cẳng Pháp để thực âm mưu của mình tại Việt
Nam với bước đi đầu tiên là biến Miền Nam Việt Nam thành “thuộc địa kiểu mới”. Mỹ-ngụy đã đàn áp dã man phong trào
yêu nước của nhân dân ta. “Tức nước vỡ bờ”, phong trào Đồng khởi của nhân dân
miền Nam nổ ra vào năm 1960 và đã căn bản làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở
địch ở nông thôn. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam được thành lập. Đầu năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng được
thành lập.
Từ giữa năm 1961, Mỹ-ngụy đã tiến hành
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Xương sống của chiến lược này là “ấp chiến
lược” nhằm tách cách mạng khỏi nhân dân để dễ bề tiêu diệt. Át chủ bài của
chiến lược này là quân ngụy do Mỹ tổ chức, trang bị, huấn luyện và chỉ huy. Tuy
nhiên, với sự đấu tranh mạnh mẽ của quân dân ta, hệ thống “ấp chiến lược” bị
sụp đổ đến 4/5 và nguỵ quân bị lung lay tận gốc. Đặc biệt, ngay khi thành lập, Quân
Giải phóng miền Nam Việt Nam (ngày 15/2/1961) đã liên tiếp lập nhiều chiến
công. Trung ương Đảng nhận định: “Sau trận Ấp Bắc (tháng 1/1963), Mỹ đã nhận
thấy không thể thắng được ta. Sau Chiến dịch Bình Giã, Mỹ lại nhận thấy có thể
thua ta”. Ngày 20/1/1965, trong thông điệp nhậm chức Tổng thống Mỹ, Lyndon
Johnson tuyên bố: “Mỹ phải có hành động mạnh mẽ hơn để ngăn chặn sự sụp đổ hoàn
toàn của Quân đội Việt Nam Cộng hòa và chính quyền miền Nam, giữ vững Nam Việt
Nam”. Thế là Mỹ đã thừa nhận đã thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt”.
Nhằm cứu vãn tình thế thất bại, ngày 5/8/1964,
với việc dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh đánh
phá ác liệt miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân với âm mưu ngăn cản
chi viện của nhân dân miền Bắc đối với nhân dân miền Nam. Bên cạnh đó, từ tháng
2/1965, Mỹ và nhiều nước đồng minh, chư hầu (Hàn Quốc, Thái Lan, Australia, New
Zealand, Philippines…) cùng ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam để thực hiện
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Theo thống kê, từ năm 1965 đến tháng 1/1973,
Mỹ đã huy động khoảng 3 triệu lượt quân Mỹ sang miền Nam Việt Nam để tham gia
trực tiếp vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Ở đỉnh cao trong thời kỳ
1968-1969, có 638.000 quân Mỹ trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh, trong số này
có 535.000 quân Mỹ đóng ở miền Nam Việt Nam. Riêng về bộ binh, Mỹ đã huy động
gần 70% tổng số bộ binh trong quân đội. Bên cạnh đó, Mỹ cũng tiếp tục mở rộng
xây dựng quân ngụy Sài Gòn.
Trên Báo Nhân dân số 3992 (ngày 8/3/1965), Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ:
“Ở Hội nghị Genève, Chính phủ Mỹ đã tuyên bố rằng: Mỹ sẽ không đe doạ hoặc dùng
vũ lực cản trở Hiệp định ấy. Nhưng chữ ký chưa ráo mực thì Mỹ đã dùng mọi cách
phá hoại Hiệp định Genève”. Do đó, Người nhấn mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của dân tộc Việt Nam nhất định thắng
lợi “vì chúng ta có chính nghĩa; vì chúng ta đoàn kết một lòng, kiên quyết
kháng chiến; vì chúng ta được sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa
anh em và của nhân dân yêu chuộng chính nghĩa khắp thế giới – kể cả nhân dân
tiến bộ Mỹ”.
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968
Ðể đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” của Mỹ, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát triển thế tiến công và liên
tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 – 1967
của Mỹ. Trong đó nổi bật là Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã bẽ gãy cuộc
hành quân Junction City (năm 1967) với 45.000 quân Mỹ.
Ảnh 2: Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam nhận cờ và mệnh lệnh chiến đấu trước giờ xuất kích tại cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Xuân Mậu Thân 1968. Ảnh tư liệu
lịch sử.
Những chiến thắng giòn giã nói trên đã
củng cố thêm quyết tâm của Bộ Chính trị về quyết định mở cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nhằm mở ra cục diện mới trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Thơ chúc Tết năm ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/ Thắng trận tin vui khắp nước nhà/ Nam Bắc thi
đua đánh giặc Mỹ/ Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968 đã mở màn vào đêm 30 rạng ngày 31/1/1968. Quân ta đồng loạt tiến
công vào Sài Gòn và hơn 40 thành phố, thị xã khác (4 thành phố, 37 thị xã và
hàng trăm thị trấn, 4 bộ tư lệnh quân đoàn, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30
sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần), làm cho Mỹ - ngụy bị bất ngờ, không kịp trở
tay đối phó.
Đặc biệt, quân và dân Thừa Thiên - Huế
đã đồng loạt tiến công, nổi dậy làm chủ thành phố Huế 26 ngày đêm trong mùa
Xuân 1968, đánh lui hàng trăm đợt phản kích của địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tặng tiểu đội “11 cô gái sông Hương” bài thơ khen ngợi: “Dõng dạc trong tay
khẩu súng trường/ Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường/ Bác khen các cháu dân
quân gái/ Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương…”. Chiến công xuất sắc của quân và
dân ta ở Huế đã được Hội nghị chiến tranh du kích toàn miền Nam lần thứ Tư
(tháng 10/1968) chọn là một trong ba ngọn cờ đầu về chiến tranh du kích và được
Bộ Chỉ huy các lực lượng giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên dương 8 chữ vàng:
“Tiến công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường”.
Ảnh 3: Tiểu đội “11 cô gái
sông Hương” trong Tết Mậu Thân năm 1968 được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen
vì lập thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống ngoại xâm. Ảnh tư liệu lịch
sử.
Ở Sài Gòn, sào huyệt đầu não của địch,
quân và dân ta tập kích nhiều mục tiêu như tòa nhà Đại sứ Mỹ, dinh Tổng thống
ngụy, Bộ Tổng Tham mưu ngụy, Bộ tư lệnh hải quân ngụy, đài phát thanh Sài Gòn...
là những nơi đề xướng và điều hành mọi tội ác chiến tranh chống nhân dân, chống
cách mạng. Quân ta cũng đã tấn công vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đây là nơi đặt sở
chỉ huy Bộ Tư lệnh Không quân, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 không quân, Bộ Tư lệnh quân
Dù quân đội ngụy. Ðồng thời, sân bay này còn là nơi đặt sở chỉ huy các lực lượng
quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV), trên thực tế là sở chỉ huy về mặt quân sự toàn
bộ lực lượng quân sự của Mỹ ngụy và quân chư hầu tại miền Nam Việt Nam. Những
chiến sĩ tham gia trận đánh này chính là chất liệu, là nguồn cảm hứng để làm
nên bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Lê Anh Xuân - phóng viên báo Văn nghệ Giải
phóng: “Anh là chiến sỹ Giải phóng quân/ Tên Anh đã
thành tên đất nước/ Ôi anh Giải phóng quân!/ Từ dáng đứng của Anh giữa đường
băng Tân Sơn Nhất/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (Dáng đứng Việt Nam, tháng 3/1968).
Cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy của quân và dân ta không chỉ có ở Tết Mậu Thân, mà trên
thực tế đây chỉ là đợt 1, còn đợt 2 và đợt 3 diễn ra mùa hè và mùa thu năm 1968.
Kết quả trong năm 1968, theo Thông cáo của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang
giải phóng miền Nam ngày 20/12/1968, quân và dân ta ở miền Nam đã loại khỏi
vòng chiến đấu 630.000 tên Mỹ, ngụy và quân của các nước đồng minh Mỹ; tiêu
diệt và đánh thiệt hại 1 lữ đoàn, 7 trung đoàn, chiến đoàn, tiểu đoàn bộ binh,
18 chi đoàn thiết giáp; phá hỏng, phá huỷ 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu, xuồng
chiến đấu trên sông, 700 kho đạn, 100 khẩu pháo các loại; diệt, bức hàng, bức
rút 15.000 đồn bốt, chi khu. Đánh giá về thắng lợi này, Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng sau ngày toàn thắng (năm 1976) đã nêu rõ: “Thắng lợi rất oanh liệt
của đòn tiến công và nổi dậy táo bạo, bất ngờ đó đã đảo lộn thế chiến lược của
địch, làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược
của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm
phán với ta tại Hội nghị Paris”.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân Việt Nam ở miền Nam, ngày 31/3/1968, Tổng
thống Mỹ Lyndon Johnson phải tuyên bố đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ Vĩ
tuyến 20 trở ra và cử người đàm phán với đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa tại Paris. Do lập trường cương quyết của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Mỹ sau đó cũng buộc phải ngồi đàm phán với Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam và từ tháng 6/1969 là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam.
Sau
khi Hiệp định Paris được ký kết (ngày 27/1/1973), kết hợp sức mạnh của dân tộc
với sức mạnh thời đại, Đảng đã tạo ra thế và lực mới cho cuộc chiến đấu của dân
tộc ta, tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách mạng, đi đến Đại thắng mùa Xuân năm
1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Nguyễn
Văn Toàn