CÁC MÔ HÌNH “KINH TẾ - X” VÀ XU HƯỚNG DỊCH VỤ HÓA SẢN XUẤT
Được thúc đẩy nhờ sự phát triển bùng nổ của công nghệ Internet Vạn vật và Điện toán đám mây, rất nhiều doanh nghiệp đang chuyển đổi từ mô hình sản phẩm sang mô hình dịch vụ và mang lại cho khách hàng của họ nhiều lựa chọn với tính linh hoạt cao hơn.
CÁC MÔ HÌNH “KINH TẾ - X” MỚI
Ngày nay, khách hàng có xu hướng nhanh nhạy nắm bắt các mô hình kinh doanh mới mang lại cho họ những sản phẩm mới nhất có tính linh hoạt và chi phí thấp hơn. Trên thị trường, các công ty khởi nghiệp đang dẫn đầu với việc cung cấp những dịch vụ mới này, nhưng rất nhiều nhà sản xuất thông qua việc mua lại hoặc phát triển nội bộ, cũng bắt đầu phát triển các mô hình kinh doanh của họ để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng hiện đại. Những mô hình này gồm một số loại hình dưới đây.
Dịch vụ theo yêu cầu
Tăng tới gần 57 tỷ USD vào năm 2018, dịch vụ theo yêu cầu có lẽ là mô hình phổ biến nhất. Được thể hiện rõ rệt nhất ở Uber, các doanh nghiệp phục vụ theo yêu cầu xuất hiện ở hầu hết các hoạt động của con người, từ in ấn hay dắt chó đi dạo cho đến đến bảo mẫu và mát xa. Mặc dù nhiều doanh nghiệp hoạt động dựa trên nền tảng dịch vụ, nhưng tăng trưởng của dịch vụ dựa theo yêu cầu cũng đã thúc đẩy mức tăng trưởng của sản xuất theo yêu cầu và sản xuất vi mô.
Kinh tế chia sẻ
Kinh tế chia sẻ, nơi người tiêu dùng “chia sẻ” các sản phẩm và dịch vụ trực tiếp thay vì bán hàng thông qua nhà bán lẻ hay nhà phân phối, chính là một mô hình kinh doanh nữa cũng đã trở nên phổ biến trong vài năm qua. Có lẽ, ví dụ nổi tiếng nhất về doanh nghiệp kinh tế chia sẻ chính là Airbnb, nơi khách du lịch có thể thuê nhà và phòng trực tiếp từ các cá nhân khác. Nền kinh tế chia sẻ được dự đoán sẽ tăng lên tới 86,5 triệu người dùng ở Mỹ vào năm 2021, tăng từ 44,8 triệu người trong 2016.
Mặc dù kinh tế chia sẻ giúp giảm lãng phí, nhưng nó cũng gây ra mối đe dọa cho các nhà sản xuất, lý do là vì người tiêu dùng có thể lựa chọn hình thức “vay” hàng hóa thay vì mua sản phẩm mới. Chính vì vậy, các nhà sản xuất buộc phải đánh giá lại các mô hình kinh doanh của họ để tham gia vào nền kinh tế mới này.
Dịch vụ hộp thuê bao
Dịch vụ hộp thuê bao đã trở nên vô cùng phổ biến do bản chất mang tính mục tiêu cao và dễ sử dụng của chúng. Dịch vụ hộp thuê bao cũng mang lại cơ hội bán hàng trực tiếp duy nhất tới người tiêu dùng của nhà sản xuất. Các startup như Birchbox, ClubW, Stitch Fix và NatureBox chính là những công ty tiêu biểu khi nói về thị trường hộp thuê bao.
Ký gửi trực tuyến
Khi eBay và Craiglist khởi nghiệp vào giữa những năm thập nhiên 1990 của thế kỷ trước, các công ty này đã mang lại cho mỗi người cơ hội sử dụng internet để bán sản phẩm đã qua sử dụng của họ. Gần hai thập kỷ sau, loại hình cửa hàng ký gửi trực tuyến mới đã xuất hiện góp phần đồng bộ hóa quy trình này. Các trang web như thredUP, Swap và TheRealReal cho phép người dùng mua và bán trực tuyến quần áo, trang sức, đồ chơi và phụ kiện hàng hiệu đã qua sử dụng. Tương tự như kinh tế chia sẻ, các cửa hàng ký gửi trực tuyến gây ra mối đe dọa cho nhà sản xuất cũng như mang lại một cơ hội cho những người sẵn sàng có tư duy “khác biệt” về mô hình kinh doanh của họ.
XaaS (Vạn vật đều là dịch vụ - Anything as a Service)
Do điện toán đám mây trở nên phổ biến khắp nơi, các mô hình kinh doanh “Bất cứ gì cũng là Dịch vụ” (XaaS) cũng ngày càng trở nên phổ biến hơn. Cơ chế của XaaS là các doanh nghiệp có thể cung cấp các giải pháp tốt hơn, hiệu quả hơn về chi phí cho khách hàng thông qua các mô hình thuê bao hoặc dùng đến đâu trả tiền tới đó hơn là sử dụng các mô hình cấp phép phần mềm truyền thống. Mô hình XaaS phổ biến nhất là “Phần mềm Dịch vụ” (SaaS), cung cấp các ứng dụng và dịch vụ phần mềm cá nhân thông qua đám mây. Tuy nhiên, Nền tảng Dịch vụ (PaaS) và Cơ sở hạ tầng Dịch vụ (IaaS) mô hình cũng có sức hút với vai trò là một cách để các công ty công nghệ để mở rộng tầm ảnh hưởng của họ.
Mặc dù trước đây XaaS đã được đề cập tới với vai trò như điện toán đám mây, hiện tại nó ngày càng được sử dụng để xác định tất các mô hình kinh doanh dựa trên dịch vụ, từ Sản xuất như một dịch vụ và Sản phẩm như một dịch vụ, cho tới Vận chuyển như một dịch vụ (Uber và Lyft) và Mua sắm như một Dịch vụ (Trunk Club và Stitch Fix). Dù là gọi bằng bất cứ tên gì, rõ ràng nhu cầu của khách hàng đang ngày càng phát triển và các doanh nghiệp phải đáp ứng được.
DỊCH VỤ HÓA SẢN XUẤT
Từ lâu, sản xuất đã được thúc đẩy nhờ sự xuất sắc của kỹ thuật và hiệu suất vận hành, và hơn thập kỷ trước sự tăng trưởng này đã có tốc độ bứt phá mãnh liệt. Chi phí đầu vào thấp đi và các công nghệ mới đã thúc đẩy các công ty cạnh tranh về tính năng và chức năng của sản phẩm. Một ví dụ tiêu biểu là mức khả dụng của các thiết bị có chức năng Bluetooth. Hiện nay, có gần 2,6 triệu thiết bị hỗ trợ nghe Bluetooth, 168 triệu tai nghe Bluetooth, và 87 triệu thiết bị tự động hỗ trợ Bluetooth trên toàn thế giới. Bạn có thể có máy nướng bánh mì, hộp đựng chỉ nha khoa, khay trứng, chai nước, ngã ba, thùng rác Bluetooth, và thậm chí thắt lưng Bluetooth có thể sạc điện thoại thông minh của bạn.

Đi đôi với cạnh tranh để có các tính năng mới, tăng trưởng của bán lẻ trực tuyến được Amazon thúc đẩy, đã thu hẹp biên hạn và dẫn đến những nỗ lực cắt giảm chi phí. Áp lực cắt giảm chi phí đã khiến tiến trình này trở nên khó khăn hơn, theo đó các nhà sản xuất buộc phải nỗ lực cung cấp sản phẩm nhanh hơn, với chi phí ít hơn. Điều này đã dẫn đến một số nhà sản xuất “thắt lưng, buộc bụng” trang bị tính năng mới cho sản phẩm, vì thế các nhà sản xuất ngày càng tăng cường tận dụng công nghệ để cải thiện hiệu quả hoạt động, giảm lãng phí và ủng hộ các sáng kiến sản xuất tinh gọn.
Ngày nay, với một thị trường đầy các sản phẩm bão hòa các tính năng và cắt giảm chi phí tới tận “xương”, các nhà sản xuất đang chuyển sang cách tiếp cận tập trung vào khách hàng hơn, khám phá các mô hình kinh doanh dựa trên dịch vụ mới để xây dựng giá trị và phát triển các mối quan hệ với khách hàng trong một thế giới hiện đại, kết nối. Bổ xung thêm dịch vụ vào danh mục đầu tư cho phép các nhà sản xuất tạo ra sự khác biệt cho các dịch vụ của họ và đạt được lợi thế cạnh tranh trong một ngành công nghiệp đang biến đổi nhanh chóng.
Sản xuất như một dịch vụ
Mặc dù sản xuất theo hợp đồng luôn luôn là một dịch vụ, nhưng số hóa đang thay đổi cách thiết kế sản phẩm và cách mà các nhà sản xuất theo hợp đồng sản xuất ra những sản phẩm đó. Những biến đổi này đã dẫn đến việc mở rộng của mô hình “Sản xuất như dịch vụ”, trong đó các doanh nghiệp có thể tận dụng một mạng lưới hạ tầng sản xuất chung - từ máy móc, bảo trì tới phần mềm và kết nối mạng - để sản xuất hàng hóa.
Trên thực tế, dịch vụ này có thể là một mạng lưới thiết bị sản xuất được quản lý một cách mới lạ hoặc một mạng lưới các nhà sản xuất tự quản. Với một mạng lưới được quản lý quản lý một cách độc đáo như vậy, khách hàng có thể gửi đơn đặt hàng chế tạo một bộ phận, bao gồm các tập tin thiết kế và thông số kỹ thuật phù hợp, và dựa trên khối lượng công việc, vật liệu, lực lượng lao động sẵn có, địa điểm, và quy mô, mạng lưới này sẽ tự động định tuyến đơn đặt hàng đến một cơ sở sản xuất, hoặc một tập hợp các cơ sở nhất định, để thực hiện yêu cầu một cách hiệu quả nhất. Khách hàng có thể thậm chí còn không nhận biết được quá trình định tuyến, nhưng họ sẽ được hưởng lợi ích từ việc sản xuất nhanh hơn, hiệu quả về chi phí hơn.
Với các mạng lưới nhà sản xuất như vậy, ví dụ như Dassault Systemes's 3Dexperience Marketplace, khách hàng có thể nghiên cứu và gửi các dự án vào mạng lưới nhà sản xuất bằng cách sử dụng tập hợp các tập tin tiêu chuẩn hóa. Sau đó, các nhà sản xuất có thể tự động xem lại thiết kế- bao gồm cả hình học, chương trình hoạt động của các dao tiện, và các vật liệu cần thiết - để cung cấp báo giá nhanh chóng, chính xác cho khách hàng tiềm năng. Việc này cắt giảm cả gánh nặng hành chính cũng như chi phí sản xuất.
Với tốc độ nhanh hơn và chi phí thấp hơn, “Sản xuất như một dịch vụ” có một tác động mạnh đến R&D, đổi mới, và tạo mẫu. Tác động này thể hiện rõ trong một số ngành công nghiệp đòi hỏi năng lực sản xuất công nghệ cao, ví dụ như trong nhà máy chế tạo linh kiện bán dẫn. Một nhà máy mới có giá lên tới 6 tỷ USD. Mức chi phí đầu vào này là hoàn toàn quá cao so với khả năng của nhiều công ty đang tìm cách gia nhập hoặc phát triển trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, các công ty có nhà máy sản xuất linh kiện bán dẫn, như TSMC, hiện đang cung cấp dịch vụ sản xuất chip cho các công ty “không có nhà máy sản xuất”.
Mức khả dụng của các dịch vụ sản xuất này - cùng với cơ hội thiết kế và làm đi làm lại các chip mới với chi phí thấp hơn - đã làm nảy sinh việc phát triển các công ty thiết kế chip mới và nhiều đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này. Giống như nhiều mô hình kinh doanh XaaS khác, “Sản xuất như một Dịch vụ” giúp doanh nghiệp chuyển đầu tư từ CAPEX (chi phí vốn) sang OPEX (chi phí hoạt động), giải phóng vốn đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, tiếp thị và bán hàng.
Mô hình “Sản xuất như một dịch vụ” còn có những lợi ích khác, không chỉ ở việc tạo mẫu nhanh hơn ít tốn kém hơn, giúp các nhà sản xuất cân bằng tốt hơn khối lượng công việc, mà còn mở ra những cơ hội mới cho các nhà sản xuất có thể còn thiếu một số năng lực.
Sản phẩm là một dịch vụ
Khi các nhà sản xuất chuyển sang tập trung vào khách hàng hơn, nhiều nhà sản xuất áp dụng mô hình kinh doanh “Sản phẩm như một dịch vụ” để hỗ trợ tốt hơn cho nhu cầu của khách hàng. Trong Mô hình kinh doanh “Sản phẩm như một dịch vụ”, sản phẩm vật chất, phần mềm và hậu mãi được cung cấp dưới dạng dịch vụ hoặc trải nghiệm ảo, và người mua sẽ không còn sở hữu một sản phẩm vật chất nữa.
“Sản phẩm là dịch vụ” không phải mô hình mới. Trên thực tế, ngành công nghiệp ô tô đã cung cấp “Sản phẩm như một Dịch vụ” thông qua các chương trình cho thuê toàn diện trong nhiều thập kỷ. Trong một mô hình “Sản phẩm như Dịch vụ” hiện đại hơn, BMW đã cung cấp xe ô tô như một dịch vụ theo yêu cầu thông qua chương trình ReachNow của họ. Công nghệ mới đang phát triển và làm tiến triển cách mà các nhà sản xuất cung cấp “Sản phẩm như một Dịch vụ”. Dựa trên một số dự đoán ban đầu, có trên 40% trong số top 100 nhà sản xuất sản phẩm rời và 20% trong số top 100 nhà sản xuất theo công thức sẽ cung cấp mô hình “Sản phẩm là một Dịch vụ” vào cuối năm 2018.
Có ba động lực chính thúc đẩy mô hình “Sản phẩm như một dịch vụ” trong sản xuất. Thứ nhất là việc thu thập dữ liệu dễ dàng hơn nhờ tiến bộ của công nghệ cảm biến. Các cảm biến đã trở nên nhỏ hơn, mạnh hơn và ít tốn kém hơn, dự kiến sẽ đạt tới mức chi phí trung bình là 0,38 USD tới năm 2020, giảm từ 1,30 USD vào 2004. Với những biến đổi này, kích thước thị trường cho cảm biến và bộ điều khiển đã tăng mạnh và có thể tăng lên 5,6 tỷ USD trong năm 2018. Việc áp dụng các cảm biến đã thúc đẩy thu thập dữ liệu dễ dàng và mạnh hơn. Khi nhúng vào sản phẩm, những cảm biến này cung cấp cho các nhà sản xuất phản hồi gần như theo thời gian thực về công dụng sản phẩm. Chúng cũng có thể được sử dụng để thu thập dữ liệu tốt hơn về khắp chuỗi giá trị và hoạt động sản xuất.
Động lực thứ hai là kết nối và xử lý vi tính điện toán đám mây tốt hơn. Mặc dù các nhà sản xuất chắc chắn có thể thu thập dữ liệu sản phẩm và hoạt động trước đó, nhưng điện toán đám mây cho phép họ dễ dàng thống nhất nhiều dữ liệu hơn từ tất cả các điểm liên lạc trong chuỗi giá trị. Kết hợp với trí tuệ nhân tạo và máy học, sự thống nhất này cho phép họ hiểu sâu hơn về dữ liệu của họ, xử lý thông tin nhanh hơn, và tự động hóa các hoạt động một cách thông minh hơn. Hơn nữa, những tiến bộ hiện đại trong xử lý máy tính hiện cho phép các chức năng này chạy ở quy mô mà trước đây không thể diễn ra. Những tiến bộ này có thể thúc đẩy phát triển sản phẩm, cải tiến bán hàng và tăng cường hỗ trợ khách hàng.
Động lực thứ ba chính là giao điểm của phần cứng và phần mềm. Do sản phẩm trở nên thông minh và kết nối hơn nên cũng khó phân biệt sản phẩm với công nghệ mà sản phẩm được chạy trên đó, đặc biệt là phần mềm. Sự hội tụ giữa phần cứng và phần mềm làm tăng việc sử dụng trực tiếp sản phẩm từ nhà sản xuất, do khách hàng có thể ngày càng phụ thuộc vào sự hỗ trợ và cập nhật phần mềm của nhà sản xuất. Điều này mang lại một cơ hội tuyệt vời cho các nhà sản xuất để xây dựng một mối quan hệ liên tục với khách hàng trong suốt vòng đời của một sản phẩm, bao gồm tăng cường sản phẩm với các dịch vụ kỹ thuật số, cung cấp hỗ trợ và cho bổ sung những chức năng mới vào các sản phẩm cũ thông qua cập nhật phần mềm OTA (over the air: cập nhật thông qua sóng, wifi...).
Các dịch vụ kỹ thuật số
Do công nghệ, ví dụ như Internet Vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo và học máy, mang lại cho các nhà sản xuất tầm nhìn lớn hơn về các sản phẩm và hoạt động của họ, nên họ đang tận dụng thông tin này để xây dựng các dịch vụ kỹ thuật số, ví dụ như bảo trì dự đoán, làm tăng các dịch vụ sản phẩm và sản xuất khác của họ.

ThyssenKrupp, một công ty đa quốc gia của Đức và là nhà sản xuất thang máy lớn thứ năm thế giới, đã đổi mới dựa trên công nghệ IoT để kết nối thang máy với điện toán mây. Dữ liệu được thu thập từ cảm biến của chiếc thang máy cho phép các thuật toán xử lý thông tin và dự đoán khi nào chiếc thang máy cần được bảo trì trước khi nguy cơ hỏng hóc ở chiếc thang máy diễn ra. Phương pháp bảo trì dự đoán này được tăng cường hơn nữa bằng cách sử dụng công nghệ thực tế tăng cường, với việc các kỹ thuật viên thang máy sử dụng Microsoft HoloLens để nhận những hướng dẫn “rảnh tay” từ xa, từ các chuyên gia trong khi họ trên hiện trường.
Ngoài các mô hình Sản xuất như một Dịch vụ, Sản phẩm như một Dịch vụ và các dịch vụ kỹ thuật số vừa được nêu trên, sản xuất theo mạng đám mây cũng đang mở ra một loạt các dịch vụ cho các nhà sản xuất, bao gồm Thiết kế như một Dịch vụ (DaaS), Thử nghiệm như một Dịch vụ (EaaS), Thiết bị như một Dịch vụ (EaaS), Mô phỏng như một Dịch vụ (SIMaaS), Quản lý như một Dịch vụ (MaaS), Bảo trì như một Dịch vụ (MAaaS) và Tích hợp như một Dịch vụ (INTaaS). Đa dạng hóa các dịch vụ theo hướng này mang lại lợi ích quan trọng cho các nhà sản xuất đang nắm bắt các mô hình hướng dịch vụ. Bỏ qua những từ viết tắt ở các dịch vụ nêu trên, có thể thẩy rõ tương lai của sản xuất nằm ở các dịch vụ sản xuất lấy khách hàng làm trọng tâm./.
Theo Bản tin Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, số 47/2023
Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia.