VẤN ĐỀ NHẬN DIỆN VÀ CHÍNH SÁCH VỀ NGƯỜI TÀI
Phan Đức Ngữ (CVCC)
Qua hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã có sự thay đổi sâu sắc về cơ cấu các ngành, các lĩnh vực và các thành phần kinh tế, cơ cấu xã hội và nguồn nhân lực cũng như thể chế và hội nhập quốc tế. Vì vậy cần có cách tiếp cận mới về vấn đề người tài, phân định và có chính sách phù hợp với người tài trong khu vực công và khu vực tư.
1. Khái niệm người tài
Theo khái niệm chung nhất, người tài là người có trí tuệ, năng lực làm việc giỏi, sáng tạo nổi trội hơn đồng nghiệp trong một hoặc một số lĩnh vực, ngành nghề ở mức độ hiếm gặp; đạt được thành tích xuất sắc, có cống hiến xuất sắc, được ghi nhận và tôn vinh. Cấp độ tài năng có ở cấp đơn vị, cấp địa phương, cấp bộ, ngành và cấp toàn quốc. Người có tài như vậy cũng là vừa có tài, vừa có đức. Trong số những người tài như vậy, ai thuộc tốp xuất chúng nhất, nổi tiếng trong nước và thế giới thì được hiểu là nhân tài, còn lại là tài năng gắn với chức danh nghề nghiệp (như nhà lãnh đạo tài năng, nhà khoa học tài năng, nhà giáo tài năng, thầy thuốc tài năng, doanh nhân tài năng...). Việc các địa phương chạy đua thu hút các đối tượng có bằng cấp cao gọi là “người tài năng” hay là “nhân tài”, đồng nhất bằng cấp cao với tài năng là chưa chuẩn xác, nếu không muốn nói là ngộ nhận. Học sinh, sinh viên giỏi quốc gia, quốc tế, cử nhân, kỹ sư hệ đào tạo tài năng...cũng mới là tài năng tiềm năng. Đối tượng này sẽ trở thành tài năng thực thụ hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan.
“Thiên tài” cũng là nhân tài nhưng ở tầm cao hơn, hiếm hơn, đó là người có trí tuệ và năng lực sáng tạo đặc biệt, lần đầu tiên khám phá hoặc phát minh ra các vấn đề mang tính đột phá có giá trị to lớn và tầm ảnh hưởng quốc gia và toàn cầu mà trước đó chưa ai làm được. Đó là những người tầm cỡ như C. Mác, Anbe Anh-xtanh, hay Bill Gaets...còn “Hiền tài”, thì nên hiểu theo một nghĩa khác đặc biệt hơn, đó là bậc tài - đức ở tầm vĩ nhân, tầm trị quốc, bình thiên hạ, như ở nước ta là Nguyễn Trãi (Thế kỷ XIV), vua Lê Thánh Tông (Thế kỷ XV) hay Chủ tịch Hồ Chí Minh (Thế kỷ XX). Có những bậc vĩ nhân được thiên hạ tôn lên hàng Thánh nhân, như Khổng Tử thời cổ đại bên Trung Quốc. Nói thế để hiểu rằng, người tài cần có chính sách khuyến khích ở đây là ở mức giỏi giang, xuất sắc trong nghề nghiệp là chủ yếu, và như vậy cũng mới là thực tế.
2. Tiêu chí người tài
Đối với người đã khuất, ai là người thực sự tài năng đã được sử sách ghi danh, phần lớn họ cũng là danh nhân, có công lớn với đất nước, với dân tộc, được Đảng, Nhà nước và xã hội ghi nhận và vinh danh. Đây là sự ghi nhận và vinh danh đáng tin cậy nhất, vì đã được lịch sử sàng lọc cả tài lẫn đức, hoàn toàn khách quan, không chịu sự chi phối của bất kỳ quan hệ nào.
Đối với người đang sống và làm việc thì vấn đề phức tạp hơn. Đến nay, mới có 2 đối tượng được Nhà nước ta trực tiếp quy định. Một là “Công chức tài năng” (Luật CBCC năm 2008, sửa đổi năm 2019), nhưng qua hơn 20 năm, vẫn chưa xác định được ai là tài năng, vì chưa lượng hóa được tiêu chuẩn. Hai là “Nhà khoa học trẻ tài năng” (Nghị định 40/2014), được lượng hóa cụ thể hơn về tiêu chuẩn, nhưng đây là chức danh mang tính chất thủ tục hành chính để giải quyết chính sách, chứ không phải danh hiệu vinh dự hay sự vinh danh xã hội. Còn lại, các đối tượng khác, Luật TĐKT và các nghị định và Thông tư chuyên ngành quy định Tiêu chuẩn chức danh, Danh hiệu vinh dự, Hình thức khen thưởng, Giải thưởng (giải thưởng hệ Nhà nước)...Các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế cũng có nhiều hình thức vinh danh cá nhân, chủ yếu là thông qua tiêu chuẩn của Giải thưởng, chứ không trực tiếp quy định tiêu chí người tài.
Như vậy có thể nhận diện người tài thông qua chức danh cao, danh hiệu vinh dự cao, hình thức khen thưởng cao, giải thưởng cao. Ngoài ra cón có kênh bình chọn xã hội. Đó là bình chọn của báo chí, và trang Web trong và ngoài nước chuyên nghiên cứu, xếp hạng giới thiệu các sản phẩm, tổ chức, nhân vật nổi tiếng trên các lĩnh vực (như Time, Forbes, Topist, Bách khoa toàn thư mở trong nước vi.wiki.pedia.org, Bách khoa toàn thư có uy tín của nước ngoài...). Các tổ chức quốc tế cũng vinh danh những người nổi tiếng. Bình chọn và vinh danh xã hội về người tài, người nổi tiếng, chủ yếu là trong lĩnh vực KH&CN, VH&NT, thể thao, doanh nhân, còn trong lĩnh vực chính trị là các bậc tiền bối, còn lãnh đạo hiện thời thì ít sự bình chọn hơn, chủ yếu là những người có tầm ảnh hưởng thế giới.
Nhận diện người tài trong khu vực sự nghiệp và sản xuất kinh doanh thì không khó lắm, vì công việc và sản phẩm mang dấu ấn cá nhân, có nhiều sân chơi thi thố, giải thưởng, lại còn có kênh bình chọn xã hội. Đối với khu vực hành chính công thì không được như vậy nên khó nhận diện hơn, đến nay vẫn chưa có công chức nào được chính thức công nhận. Phải chăng, tiêu chí cơ bản nhất là sáng kiến có tầm ảnh hưởng lớn và khen thưởng cao?
Công chức là lãnh đạo càng chưa có tiêu chí để nhận diện ai là tài năng, nhưng lãnh đạo tài năng thì trước hết phải nói đến cán bộ cấp chiến lược. Đây là đội ngũ tinh hoa nhất của quốc gia, giữ vai trò trọng trách cao nhất, có tầm ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển của đất nước và dân tộc, được Đảng, Nhà nước lựa chọn, bố trí theo tiêu chuẩn tài - đức cao nhất trong hệ thống chính trị. Nhưng ai là người tài thực sự thì chủ yếu vẫn phải căn cứ vào kết quả công việc. Đó là các chỉ số phát triển và thứ hạng của đơn vị, ngành, địa phương do họ phụ trách, mức độ được khen thưởng và có vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật Nhà nước hay không. Đông Tây, Kim Cổ đã đúc kết, nhận biết được thị phi thì người không thiếu, nhưng giải quyết được thị phi thì không phải ai cũng có bản lĩnh. Tài năng đặc trưng và cơ bản nhất của lãnh đạo là tài năng sử dụng quyền lực, vừa không để lãng phí quyền lực, vừa không lạm dụng quyền lực, không bị bị quyền lực tha hóa.
3. Chính sách đối với người tài
Chính sách đối với người tài của nước ta lâu nay thiên về khu vực công. Trong hơn 35 năm đổi mới, nền nền kinh tế nước ta đã có sự thay đổi sâu sắc theo hướng công nghiệp hóa, đa thành phần. Năm 2020, tỷ trọng (làm tròn) của Kinh tế nhà nước dưới 30%, tập thể gần 5%, Tư nhân, cá thể trên 43%, FDI trên 21%. Nguồn nhân lực làm làm việc trong khu vực công lập 8%, khu vực ngoài công lập 83%, khu vực FDI 9%. Vì vậy, cần có cách tiếp cận mới về chính sách đối với người tài.
Đất nước, xã hội, cần ngươi tài, khu vực nào cũng cần người tài. Chính sách thiên về ưu đãi đào tạo, thu hút và trọng dụng người tài trong khu vực công là chủ yếu không còn phù hợp. Đã có sự cạnh tranh người tài chuyển từ khu vực công sang khu vực tưc, chuyển từ trong nước ra nước ngoài. Sau đại dịch Covid -19, xuất hiện làn sóng trên 1 vạn CCVC khu vực công chuyển sang khu vực tư, chủ yếu là ngành Y và ngành GĐ&ĐT. Trên 80% các quán quân đường lên đỉnh olimpia đi du học không trở về nước; 3.000 tiến sĩ được đào tào bằng nguồn ngân sách thì 1950 (chiếm 65%) ở lại nước ngoài; hàng năm Nhà nước đầu tư 1,4 tỷ USD để đào tạo 100.000 sinh viên thì khu vực công lập cũng không sử dụng được mấy.
Sự cạnh tranh không chỉ tạo động lực phát triển, mà còn kích cầu về người tài, tạo áp lực và kích thích tất cả các khu vực quan tâm đào tạo, thu hút, trọng dụng người tài. Cần xem xét lại thấu đáo chính sách của ta cả về chế độ đãi ngộ và môi trường làm việc, đồng thời cũng cần có cách nhìn nhận vấn đề cởi mở, thông thoáng hơn. Cạnh tranh trong nước thì “lọt sàng xuống nia”, chứ chưa đến mức là “chảy máu chất xám”. Đối với ra đi, trở về nước để lập nghiệp hay lập nghiệp thành danh ở nước ngoài rồi mới trở lại Việt Nam hoặc trở lại đầu tư hay hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp ở trong nước đều là cách lựa chọn cần được tôn trọng, khuyến khích. Giữ hai quốc tịch (Việt Nam và Pháp) như GS Ngô Bảo Châu cũng là một cách lựa chọn trọn vẹn đôi bên.
Nguồn tài năng lại phụ thuộc vào mức độ đổi mới, cải cách giáo dục & đào tạo theo hướng khai phóng, khuyến khích độc lập tư duy sáng tạo, tư duy phản biện, gắn dạy và học với nghiên cứu khoa học từ cấp phổ thông, tăng cường ở cấp đại học; phát triển, nâng cao chất lượng các trường chuyên, hệ đào tạo tài năng. Phát triển các trường đại học tầm cỡ khu vực và thế giới với cơ chế tự chủ cao; nâng chuẩn đào tạo Tiến sĩ trong nước theo chuẩn chung của quốc tế; thu hút học sinh, sinh viên xuất sắc theo đuổi ngành sư phạm, đặc biệt trọng dụng người tài trong lĩnh vực GD&ĐT.
Sự phát lộ và phát huy tài năng lại phụ thuộc vào môi trường xã hội, điều kiện làm việc. Công cuộc đổi mơi đã tạo được môi trường ngày càng thuận lợi để phát huy mọi nguồn lực, nhất là hoạt động sáng tạo. Nhưng vẫn còn nhiều việc đáng suy ngẫm. Học sinh, sinh viên tài năng của nước ta đạt các giải thưởng quốc tế không kém so với các nước phát triển. Nhưng ra đời, lập thân, lập nghiệp thì thành danh lại không bằng. Theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng như phát biểu, nhận xét gần đây của các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, KH&CN, VH&NT có nhiêu đổi mới, tiến bộ, đạt được thành tựu, có đóng góp to lớn phục vụ nhiệm vụ chính trị, xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Nhưng còn ít công trình nghiên cứu tầm quốc tế, ít giải thưởng quốc tế, đặc biệt, còn rất ít sáng chế, nhất là sáng chế tầm cao; trong lĩnh vực VHNT còn ít tác phẩm lớn, đỉnh cao ngang với tầm vóc sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước cũng như so với khu vực và thế giới. Một phần là do tài năng các nhà khoa học, văn nghệ sĩ, nhưng một phần là do còn những rào cản cần được tiếp tục dỡ bỏ hoặc lùi ra xa hơn nữa. (1) Theo dân gian, có tài thì hay có tật. Tật ở đây chủ yếu là về tính cách, sở thích và thói quen cá nhân. Cần có thái độ, cách nhìn thông thoáng, cởi mở hơn của xã hội và các cấp quản lý. Trọng dụng người tài trước hết là theo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, miễn là không đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân là đều được trọng dụng. (2) Khuôn khổ pháp lý rõ ràng, cởi mở, dân chủ, tự do trong sáng tạo quan trọng như không khí và nước đối với sự sống. Tư duy đúng sai, hay dở theo thứ bậc, chịu sự chi phối máy móc, thái quá của ý thức hệ cũng là rào cản. Tập trung quan liêu, bao cấp, dựa vào ngân sách nhà nước với thủ tục hành chính phức tạp, cũng là rào cản. Không có cách nào khác là nâng cao chất lượng, hiệu quả đặt hàng của Nhà nước. Tái cơ cấu đầu tư, chuyển bớt đầu tư từ kênh ngân sách theo niên độ năm tài chính với cơ chế bao cấp hoàn toàn sang kênh đầu tư của Quỹ phát triển KH&CN với nhiều hình thức đa dạng và cơ chế thường xuyên, liên tục. Tiếp tục xã hội hóa sâu rộng hơn, phát triển doanh nghiệp KH&CN, các tập đoàn kinh tế gắn sản xuất kinh doanh với đầu tư nghiên cứu. Lĩnh vực văn học nghệ thuật thì chủ yếu đã được xã hội hóa, ít dựa vào ngân sách nhà nước hơn, nhưng những điều cấm kỵ cũng nhiều hơn. Nước nào cũng đặt ra khuôn khổ pháp lý với những điều cấm kỵ, đó là sự cận thiết. Những điều cấm kỵ càng được xác lập cụ thể, chính xác, mới tránh bị lạm dụng cả từ phía văn nghệ sĩ và cơ quan quản lý. Mặt khác, khi những điều cấm kỵ không được định vị thật rõ ràng nội hàm thì giới sáng tác, xuất bản thường để khoảng cách an toàn lớn, không dám tiến sát làn ranh giới đỏ, nên tác phẩm cũng khó đạt đến đỉnh cao. (3) Phát triển đi đôi với nâng cao chất lượng các sân chơi thi thố tìm kiếm tài năng, Hội thi, Cuộc thi, Giải thưởng để vinh danh công trình, tác phẩm và vinh danh tác giả là hết sức cần thiết. Theo dư luận thì quy chế thủ tục công nhận các danh hiệu vinh dự cao, chức danh chuyên môn cao, bổ nhiệm chức danh GS, PGS, đào tạo tiến sĩ cũng cần tiếp tục được hoàn thiện. Mặt khác, cần làm trong sạch hơn môi trường sáng tạo, chống đạo văn, vi phạm bản quyền, chợ trời, chợ ngầm luận văn, luận án, bài báo khoa học, bảo vệ quyền tác giả trên môi trường mạng. (4). Chính sách đãi ngộ đảm bảo để người tài toàn tâm vào công việc cũng là vấn đề lớn. Đối với khu vực ngoài công lập cơ bản đã đang và được giải quyết tích cực. Đó là tuyển dụng, đề bạt nhân sự chủ yếu bằng con đường tuyển chọn cạnh tranh và trả lương, thưởng theo cơ chế cạnh tranh. Khu vực công thì đang có vấn đề. Khu vực này cũng đã thực hiện tuyển chọn theo hướng cạnh tranh đối với cán bộ cấp vụ (ở cơ quan trung ương) và cấp sở, cấp phòng ở địa phương, nhưng mới ở diện hẹp, duy trì chưa đều, chậm mở rộng. Để khuyến khích người tài thì tuyển chọn cạnh tranh là một biện pháp tốt, vấn đề đặt ra là để mở rộng. thì phải đúc rút kinh nghiệm, hoàn thiện quy chế và phải có quyết tâm chính trị cao, nhất quán. Việc khuyến khích người tài trong khu vực này bằng chính sách tiền lương là cần thiết, nhưng có giới hạn. Mở rộng các hình thức thưởng không chỉ vừa tăng thu nhập mà còn làm cho người tài thấy vinh dự. Các nhà khoa học tài năng, văn nghệ sĩ tài năng thì càng phải sống bằng giải thưởng nhiều hơn, việc cạnh tranh đấu thầu các nhiệm vụ do Nhà nước và xã hội đặt hàng phải được trở thành cơ chế để phát huy tài năng, tạo nguồn thu nhập lớn.
Cuối cùng, cần phân định chính sách đối với người tài trong khu vực công và khu vực tư. Cả hai khu vực đều cần khuôn khổ pháp luật cởi mở, hội nhập, rõ ràng, minh bạch, thiết lập làn ranh đỏ chính xác, khoa học, bảo đảm khuyến khích tự do sáng tạo, bảo vệ tốt bản quyền sản phẩm sáng tạo, thủ tục xuất nhập cảnh thuận lợi để tăng cường giao lưu hợp tác và thu hút người tài từ nước ngoài. Còn về chính sách, đối với khu vực tư thì toàn bộ chính sách (thu hút, tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, đào tạo, phát triển) là thuộc thẩm quyền của doanh nghiệp và doanh nghiệp đang có xu hướng vận hành để canh tranh người tài. Đối với khu vực công thì có hai phạm vi. Cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp chưa tự chủ thì tăng cường thi tuyển nghiêm túc, học, thực chất, chống khoa tiêu cực. Rất khó giải quyết chế độ tiền lương thỏa đáng cho người tài, nên tăng cường chế độ tiền thưởng để bù đắp. Đồng thời cải thiện môi trường làm việc thực chất, thân thiện, dân chủ, công bằng, loại bỏ được quan liêu, hình thức, tiêu cực...Đối với đơn vị sự nghiệp tự chủ thì tăng cường quyền tự chủ về nhân sự và tài chính để họ có thể chủ động thu hút, sử dụng, trả lương, thưởng và thăng tiến người tài như khu vực tư.
Các địa phương thu hút người tài không nên đồng nhất với bằng cấp, mà cần căn cứ vào thành tích thực tế. Đặc biệt là phải phân định rõ, không nên lẫn lộn giữa các khu vực. Các địa phương không thể và không nên theo đuổi có đủ người tài trên các lĩnh vực. Có lĩnh vực thì đào tạo hoặc thu hút, có lĩnh vực thì tùy vụ việc để thuê các chuyên gia, các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp tầm quốc gia, thậm chí là quốc tế.
Tài liệu tham khảo chính:
1. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, tulieuvankien.dangcongsan.vn
2. Quyết định 14-KL/TW ngày 22/9/2021của Bộ Chính trị về chủ truong khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, baochinhphu.vn
3. Phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, vusta.vn, toquoc.vn, vtv.vn
4. Phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với lãnh đạo Liên hiệp Hội VH&NT Việt Nam, thutuong.chinhphu.vn
5. Đức và Tài của người cán bộ và việc trọng dụng tài năng để thực hiện khát vọng Việt Nam hùng cường,
thịnh vượng, tapchicongsan.org.vn.
6. Đôi điều về chính sách "Chiều hiền đãi sĩ" của ông cha ta, nhandan.vn, vusta.vn
7. Chính ách chiêu hiền đãi sĩ của Bác Hồ và chế độ mới sau Cách mạng Tháng Tám, vtc.vn.
8. Nhân tài và chính sách thu hút, sử dụng nhân tài cho nền công vụ Việt Nam; Kinh nghiệm thu hút,
trọng dụng nhân tài của một số nước, mocha.org.vn
9. Về chính sách phát hiện và trọng dụng người có tài năng, xaydungdang.org.vn
10. Giải pháp về khung chính sách quốc gia đối với người có tài, quanlynhanuoc.vn
11. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về thu hút, trọng dụng nhân tài và giải pháp
đẩy mạnh thu hút, trọng dụng nhân tài ở Việt Nam hiện nay; Thực trạng và kiến nghị về chính sách
thu hút, sự dụng nhân tài, tcnn.vn
12. Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo tiền bối của Đảng và Cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia sự thật.
13. Các danh nhân được sử sách lưu danh, dacnong.org.vn
14. Ai là người tài năng, susta.vn
15. Các từ điển và trang web bình chọn vi.wikipedia.orgm, topist.vn, tiki.vn