Quốc hội giám sát thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát trong lĩnh vực KH&CN
Quốc hội giám sát thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát trong lĩnh vực KH&CN
Quốc hội giám sát thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát trong lĩnh vực KH&CN
Ngày 31 tháng 10 năm 2022, Quốc hội nghe báo cáo và thảo luận về kết quả giám sát thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát trên các lĩnh vực giai đoạn 2016-2021. Tình hình thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ tại các bộ, ngành, địa phương là một trong những trọng tâm giám sát của Đoàn Giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Qua giám sát tại 15 bộ, 15 địa phương cho thấy nguồn lực ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học công nghệ rất lớn, trong số đó tỷ lệ đưa vào ứng dụng rất thấp, có những đề tài tiêu tốn nhiều tiền nhưng hiệu ứng thực tế không có. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học nghiệm thu xong lại cất ngăn kéo; có sự trùng lắp đề tài nghiên cứu khoa học ở nhiều địa phương; nguy cơ thất thoát, lãng phí từ việc xử lý, thu hồi tài sản hình thành trong quá trình nghiên cứu, đầu tư về khoa học công nghệ; có tình trạng sử dụng kinh phí khoa học công nghệ để chi lương và hoạt động của bộ máy của các cơ quan đơn vị... Nhưng các bộ, các địa phương chưa lượng hóa được sự lãng phí trong sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ như nhiều lĩnh vực khác.
Kết quả giám sát về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tại Bộ Khoa học và Công nghệ: số liệu của Bộ về kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ được nêu thiếu logic, có sự sai lệch về số liệu báo cáo giữa tổng kinh phí nhiệm vụ khoa học công nghệ với kinh phí cho nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp quốc gia và kinh phí chi cho cấp bộ, cấp cơ sở, chi các nhiệm vụ khoa học công nghệ khác. Số liệu giữa tổng kinh phí của cả giai đoạn cũng có sự sai biệt so với số kinh phí được bố trí hàng năm. Ngoài ra, trong báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ còn bộc lộ một số tồn tại trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa học, ở cả cấp quốc gia và cấp Bộ, cấp cơ sở. Cụ thể, trong giai đoạn 2016-2021, không có đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp quốc gia nào áp dụng phương thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng; chưa cung cấp, làm rõ được danh mục, số lượng các đề tài nghiên cứu theo từng năm; chưa làm rõ được việc hình thành tài sản từ kết quả nghiên cứu; việc xử lý tài sản là trang thiết bị khi kết thúc nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo quy định tại Nghị định số 70/2018/NĐ-CP. Tổng kinh phí các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp bộ, cấp cơ sở và các nhiệm vụ khác trong giai đoạn 2016-2021 (chưa kể nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia) là 3.772 tỷ đồng nhưng chỉ có 519 tỷ đồng được phân bổ để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trong khi có tới 1.784 tỷ đồng được chi cho lương, hoạt động bộ máy, nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng, và các nhiệm vụ cấp bộ khác. Có tổng số 86 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đã được xem xét, xử lý dừng thực hiện. Việc thống kê, quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu về tài sản chưa được chú trọng thực hiện, báo cáo về việc thương mại hóa, xử lý các tài sản là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ cũng không rõ. Nhiều đề tài có đơn vị nhận chuyển giao kết quả là các doanh nghiệp ngoài nhà nước nhưng không có báo cáo về giá trị chuyển giao, thu hồi vốn cho Nhà nước. Rất nhiều đề tài cấp kinh phí xong bị dừng, hủy, thậm chí làm xong rồi nhưng lại không được đưa vào thực tiễn, trong khi đó có rất nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng trong thực tiễn thì lại không được ứng kinh phí. Có nguy cơ thất thoát, lãng phí từ việc xử lý, thu hồi tài sản hình thành trong quá trình nghiên cứu, đầu tư về khoa học công nghệ. Bởi, theo kết quả kiểm toán, giá trị tài sản chưa được xử lý lớn, số liệu tổng hợp đến hết năm 2020 là 1.032 tỉ đồng. Việc quản lý Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia và Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, khi Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia được ngân sách nhà nước cấp hơn 317 tỷ đồng song việc triển khai hoạt động còn nhiều bất cập, chưa thể tự chủ, hàng năm phải sử dụng 1 phần nguồn vốn điều lệ để duy trì hoạt động thường xuyên. Những vấn đề như vậy chưa được Bộ Khoa học và Công nghệ quan tâm đánh giá sâu.
Giám sát việc quản lý, sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ tại Bộ Công thương: tổng kinh phí ngân sách nhà nước nguồn sự nghiệp khoa học phân bổ cho Bộ Công thương là gần 2.059 tỷ đồng. Đáng chú ý, trong số kinh phí phân bổ cho các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ giai đoạn 2016-2021 có kinh phí chi lương và hoạt động bộ máy thông qua các nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của các Viện nghiên cứu trực thuộc Bộ (chiếm 19%). Kết quả giám sát bước đầu của Tổ công tác (Đoàn Giám sát của Quốc hội) đã đưa ra nhận định: với số liệu do Bộ Công thương cung cấp, trong tổng số kinh phí nghiên cứu khoa học, Bộ Công thương giao cho các doanh nghiệp, viện trường, hiệp hội thực hiện khá lớn (chiếm khoảng 56%). Tuy nhiên, Bộ chưa làm rõ cơ chế phối hợp, phân chia trách nhiệm, rủi ro, quyền lợi giữa Bộ và các cơ quan, tổ chức này, nhất là quyền lợi về mặt kinh tế cho Nhà nước khi các đề tài sử dụng kinh phí nghiên cứu của Nhà nước thành công, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; Bộ Công thương cũng chưa làm rõ sự phù hợp và cơ sở pháp lý của việc Bộ Công thương sử dụng 19% số kinh phí phân bổ cho các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ để hỗ trợ chi lương và hoạt động bộ máy của các Viện nghiên cứu trực thuộc Bộ. Hơn nữa, số kinh phí sự nghiệp khoa học của Bộ Công thương trong giai đoạn 2016-2021 là khá lớn. Báo cáo của Bộ Công thương chủ yếu đánh giá kết quả đạt được, các tồn tại, vướng mắc chủ yếu là cơ chế chính sách, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan; chưa làm rõ được số tiết kiệm khi thực hiện nguồn kinh phí này; số thất thoát, lãng phí; việc quản lý, sử dụng các kết quả nghiên cứu sau khi nghiệm thu, cũng như quản lý, sử dụng các tài sản, trang thiết bị đã mua sắm, đầu tư khi thực hiện các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học này. Kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước tại Bộ Công thương cũng cho thấy, còn tình trạng lập dự toán kinh phí khoa học và công nghệ đối với nhiệm vụ mở mới khi chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt (14,133 tỷ đồng); giao dự toán chi sự nghiệp khoa học và công nghệ chưa ưu tiên bố trí kinh phí cho các nhiệm vụ chuyển tiếp; quản lý, sử dụng nguồn vốn khoa học và công nghệ còn chưa đúng quy định; các dự án sản xuất thử nghiệm do Bộ giao cho đơn vị thực hiện từ các năm 2006-2010 đã thu hồi nhưng chưa nộp trả ngân sách nhà nước là 2.940 tỷ đồng; một số hợp đồng đã nợ trên 3 năm chưa được đối chiếu, thanh toán hoặc chưa xử lý theo quy định; chưa phản ánh số phải trả của dự án “Nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và đảm bảo an toàn, an ninh hệ thống mạng” 86,38 tỷ đồng…
Kết quả giám sát tại Bộ Y tế: kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học dành cho Bộ Y tế rất lớn. Theo dư luận, lãng phí không ít, hiệu quả ứng dụng không cao. Tuy nhiên, trong báo cáo của Bộ Y tế nêu chung chung, không báo cáo cụ thể 5 năm qua đã triển khai bao nhiêu đề tài, dự án khoa học công nghệ, mức độ ứng dụng như thế nào, có lãng phí hay không,...
Tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: đề tài nghiên cứu chuyển đổi giống cây trồng nhưng giống lại của Thái Lan trong khi chi phí cho nghiên cứu rất lớn...
Kết quả giám sát tại UBND thành phố Hà Nội: theo Báo cáo của UBND thành phố, giai đoạn 2016-2021, tổng dự toán kinh phí bố trí cho sự nghiệp khoa học và công nghệ của thành phố là 1.531.094 triệu đồng, trong đó chi cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ là 629.662 triệu đồng. Cơ chế quản lý các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã chuyển mạnh từ phương thức giao trực tiếp sang đặt hàng, tuyển chọn. Kết quả về tình hình thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ giai đoạn 2016-2021 có 85% nhiệm vụ sau khi kết thúc được ứng dụng, 15% kết quả nghiên cứu sau khi nghiệm thu chưa được ứng dụng thực tiễn. Nhưng báo cáo của thành phố cũng chưa thuyết phục vì thiếu danh sách, địa chỉ và kết quả cụ thể. Như số lượng tổng mức đầu tư cho các dự án nghiên cứu khoa học là bao nhiêu, tư nguồn ngân sách nhà nước hay nguồn huy động từ bên ngoài; các đề tài được ứng dụng trong thực tế ở lĩnh vực nào; giá trị thương mại hóa các đề tài nghiên cứu khoa học; lượng hóa con số tiết kiệm, lãng phí...
Phan Đức Ngữ