Kinh nghiệm biến nghiên cứu khoa học thành Spin-off của Y Combinator - Vườn ươm Startup nổi tiếng nhất nước Mỹ
Kinh nghiệm biến nghiên cứu khoa học thành Spin-off của Y Combinator - Vườn ươm Startup nổi tiếng nhất nước Mỹ

KINH NGHIỆM BIẾN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THÀNH SPIN-OFF CỦA Y COMBINATOR - VƯỜN ƯƠM STARTUP NỔI TIẾNG NHẤT NƯỚC MỸ
Y Combinator (YC) là nơi khởi đầu của khoảng 1000 startup tại Mỹ, trong đó có những cái tên nổi danh như Dropbox, Airbnb. Với spin-off trường đại học, YC đã tài trợ cho hơn 75 spin-off. Nhóm nghiên cứu của YC đã tiến hành một cuộc điều tra có tên là Bio Tour tại các trường đại học. Họ đã tới các trường đại học nghiên cứu và nói chuyện với hàng trăm sinh viên và giáo sư trong ngành khoa học đời sống về việc thương mại hóa nghiên cứu của họ. Từ cuộc điều tra, họ đã đưa ra lời khuyên dành cho những người đang và đã nghiên cứu khoa học tại một trường đại học và đang cân nhắc thành lập công ty để thương mại hóa nó.
Quyết định xem ai nên spin-off
Trong một tình huống spin-off điển hình, có một tập hợp các học giả thực hiện nghiên cứu, bao gồm cả sinh viên, nghiên cứu sinh và giảng viên. Điều đầu tiên cần quyết định là ai sẽ làm việc tại spin-off còn ai sẽ ở lại trường đại học. Rất nhiều nhà sáng lập khoa học có quan niệm sai lầm về cách cấu trúc đội ngũ sáng lập viên của họ. Đây là những sai lầm phổ biến nhất.
Quan niệm sai lầm 1. Vừa có thể thành lập công ty vừa tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu của mình
Đây là một sự thật thường khiến những người sáng lập khó chịu: công ty của bạn sẽ có rất ít cơ hội thành công trừ khi ai đó từng làm ở nghiên cứu gốc ban đầu sẵn sàng rời bỏ vai trò ở trường đại học của họ để ra thành lập công ty.
Nếu bạn là một sinh viên sắp tốt nghiệp, bạn có thể chỉ cần đợi đến khi tốt nghiệp; đó là thời điểm hoàn hảo để thành lập công ty. Còn nếu không, đến một lúc nào đó bạn sẽ phải đưa ra quyết định mang tính chủ đích rời đi để có thể điều hành công ty.
Quan niệm sai lầm 2. Nên tìm một CEO để điều hành công ty
Có quá nhiều nhà khoa học cho rằng họ nên ở lại trường và tìm một giám đốc điều hành (CEO) để thành lập công ty từ phát minh của họ. Đây hầu như luôn luôn là một ý tưởng tồi. Rất khó để tìm được một giám đốc điều hành giỏi để vận hành một công ty ở giai đoạn đầu này. Những CEO giỏi rất hiếm và họ thường có các cơ hội tốt hơn so với việc điều hành một công ty spin-off mới ở giai đoạn ý tưởng và không có kinh phí. Kết quả là, hầu hết các nhà khoa học thử hướng này đều không bao giờ tìm được CEO giỏi hoặc chỉ chọn được những người tầm thường. Điều này thậm chí còn tồi hơn so với việc để trường đại học giúp tìm một Giám đốc điều hành cho bạn. Ngay cả khi bạn có thể mời bất kỳ người nào điều hành công ty cho mình, thì đó vẫn không phải là một ý tưởng hay. Giám đốc điều hành tốt nhất cho giai đoạn này là một trong những người đã thực hiện nghiên cứu gốc ban đầu. Những người đã thực hiện nghiên cứu ban đầu sẽ tâm huyết với thành công của spin-off hơn bất kỳ người bên ngoài nào. Họ cũng có thừa năng lực để xây dựng một công ty từ nghiên cứu ban đầu đó bởi vì kiến thức chuyên môn của họ có giá trị hơn nhiều so với bất kỳ kỹ năng kinh doanh thông thường nào mà một CEO bên ngoài sẽ mang lại.
Một quan niệm sai lầm nữa là cho rằng nghiên cứu đã xong và tất cả những gì còn lại là thương mại hóa nó. Nếu điều này là đúng, có lẽ lựa chọn một CEO ngoài sẽ có lý. Tuy nhiên, hiếm khi diễn ra theo cách đó. Thông thường, thứ mà thị trường muốn không hoàn toàn là thứ mà bạn đã phát minh ra, cho nên cần phải nghiên cứu thêm. Các nhà phát minh ban đầu có thể lấy thông tin phản hồi này và thực hiện các điều chỉnh; cho nên một CEO ngoài sẽ dễ bị tắc ở điểm này.
Quan niệm sai lầm 3. Cần một người có kinh nghiệm kinh doanh trong nhóm sáng lập
Nhiều nhà khoa học cho rằng để khởi nghiệp, bạn cần một người có sẵn kinh nghiệm kinh doanh và tài chính. Trong vài năm đầu tiên, thường có rất ít “công việc kinh doanh” phải được thực hiện, và bất kỳ kỹ năng kinh doanh nào bạn cần, bạn sẽ trau dồi được trong quá trình thành lập spin-off. Hầu hết các nhà khoa học được Y Combinator tài trợ đều không có kinh nghiệm kinh doanh trước đây. Những người làm việc trong lĩnh vực kinh doanh thích quan trọng hóa vấn đề, như thể kinh doanh giống như vật lý lượng tử, một lĩnh vực cần được nghiên cứu trong nhiều năm để thành thạo. Thực tế là chả có mối tương quan nào hết.
Quan niệm sai lầm 4: Nên huy động vốn, sau đó rời trường đại học
Thông thường, nhiều người không chắc chắn về việc họ có muốn mạo hiểm rời bỏ một vị trí nghiên cứu ổn định để theo đuổi khởi nghiệp hay không. Vì vậy, họ đem ý tưởng của mình và quảng cáo cho một số công ty đầu tư mạo hiểm (VC) địa phương. Họ cho rằng nếu đó là một ý tưởng hay, các công ty VC sẽ tài trợ cho họ, xác thực ý tưởng và giúp họ chuyển đổi suôn sẻ từ công việc ở trường đại học và trở thành một công ty được tài trợ tốt. Mặc dù các công ty VC đôi khi sẽ tài trợ cho các spin-off theo cách này, nhưng thực ra cách này không phổ biến. Thật không may, có quá nhiều nhà sáng lập bị VC từ chối cho rằng ý tưởng của họ kém và vì thế từ bỏ ý tưởng. Trên thực tế, vấn đề là tại thời điểm này còn quá sớm để huy động tiền từ các VC.

Thông thường, những người sáng lập cần phải làm việc toàn thời gian cho spin-off của họ trong hơn 1 nă m trước khi nó có thể huy động được hàng triệu USD từ các VC. Trong khi đó, họ tự duy trì bằng cách tự tài trợ từ những khoản tiết kiệm của mình, nhận tài trợ nghiên cứu của chính phủ, huy động những khoản tiền nhỏ từ bạn bè và gia đình hoặc thực hiện vòng gọi vốn nhỏ "tiền hạt giống" từ các nhà đầu tư thiên thần, các công ty gia tốc hoặc các quỹ hạt giống. Những nhà sáng lập không bỏ việc trước khi huy động vốn thường gặp khó khăn từ việc mắc kẹt. Họ chờ đợi một nhà đầu tư đặt cược vào họ trước khi họ nghỉ việc. Nhưng các nhà đầu tư thì lại chờ những người sáng lập đủ tâm huyết với spinoff của họ để có thể dũng cảm nghỉ việc.
Hướng giải quyết
Tình huống lý tưởng là hai hoặc nhiều người từ phòng thí nghiệm cùng nhau rời bỏ công việc để thành lập spin-off với tư cách là người đồng sáng lập. Một nhà sáng lập làm việc toàn thời gian cũng ổn. Một trong những người rời đi để thành lập công ty nên là Giám đốc điều hành.
Trong nhiều trường hợp, những người khác tham gia vào nghiên cứu muốn ở lại trường đại học nhưng vẫn đóng góp theo một cách nào đó. Trường hợp này cũng tốt. Những người đó thường được gọi là “nhà đồng sáng lập học thuật” hoặc “nhà đồng sáng lập khoa học” và họ vẫn có thể rất hữu ích. Nhưng những nhà sáng lập toàn thời gian là quan trọng nhất.
Quyết định thời điểm spin-off và chia tách vốn cổ phần sở hữu
Trong giai đoạn đầu phát triển một công nghệ mới, bạn sẽ tiến bộ nhanh hơn nếu còn ở trường đại học, tận dụng các nguồn lực của trường đại học. Đó là nơi lý tưởng để thực hiện các thử nghiệm ban đầu nhằm chứng minh rằng ý tưởng của bạn có thể hoạt động. Bạn thậm chí có thể thực hiện một số thử nghiệm về nhu cầu thị trường đối với một sản phẩm mới. Tuy nhiên, tại một số thời điểm, điều này sẽ thay đổi và việc ở lại trường đại học sẽ bắt đầu khiến bạn chậm lại, bởi vì các trường đại học không phải là nơi để thương mại hóa công nghệ. Có thể bạn rời đi quá sớm và có thể bạn chần chừ quá lâu mới rời đi. Tuy nhiên, không nghi ngờ gì nữa, sai lầm phổ biến vẫn là chần chừ quá lâu mới rời đi.
Hầu hết những nhà sáng lập đều chần chừ quá lâu vì rời khỏi trường “rất đáng sợ”. Học viện là một môi trường an toàn. Không ai gây áp lực buộc bạn phải rời đi và việc rời đi dường như đầy rủi ro nên điều tự nhiên cần làm là tiếp tục trì hoãn. Bạn sẽ muốn lấy lý do làm cho công nghệ trở nên hoàn hảo trước khi ra mắt và cần có “một thử nghiệm nữa” để biện hộ cho việc trì hoãn. Nếu bạn không dừng chu kỳ này, bạn sẽ không bao giờ rời đi.
Thông thường, sau khi mọi người rời đi, họ mới nhận ra rằng rất nhiều việc họ đã làm trong năm qua đã bị lãng phí, bởi vì một số giả định của họ về những gì thị trường mong muốn là sai. Họ cũng nhận ra rằng giờ họ phát triển nhanh hơn nhiều khi làm hoàn toàn ở spin-off và họ đã có thể tiết kiệm hàng tháng thời gian bằng cách ra làm ở spin-off một năm trước đó.
Chia tách vốn cổ phần sở hữu
Sau khi đã quyết định ai sẽ là người dành toàn thời gian cho spin-off và vai trò của mọi người trong công ty, bạn sẽ muốn chia nhỏ cổ phần sở hữu. Nhưng những người sáng lập thường không có một khung hợp lý để đưa ra quyết định đó. Đây là khung YC đề xuất, nó chỉ gồm có hai quy tắc.
Những người sáng lập làm việc toàn thời gian spin-off phải nhận được số cổ phần sở hữu bằng hoặc gần bằng nhau.
Những người sáng lập rời bỏ công việc của mình để làm việc toàn thời gian cho spin-off sẽ nhận được nhiều cổ phần sở hữu hơn so với những người sáng lập sẽ ở lại trường đại học. Các nhà đồng sáng lập học thuật thường không nên sở hữu nhiều hơn 10% trừ khi họ tiếp tục tham gia.
Quan niệm sai lầm nhất mà các nhóm sáng lập khoa học thường mắc phải là họ cho rằng mục đích của việc phân bổ cổ phần sở hữu là để khen thưởng cho những đóng góp trong quá khứ, trong khi thực tế chủ yếu là để dự đoán những đóng góp trong tương lai. Đây là một sự thật phũ phàng về việc khởi nghiệp một công ty. Nếu bạn định xây đựng một spin-off thành công, thì bạn có thể sẽ phải làm việc với nó trong 7-10 năm sau quá trình hình thành spinoff. Đó là một thời gian dài!
Nếu bạn mới chỉ spin-out (thành lập một spin-off và tách) khỏi một trường đại học, bạn có thể cảm thấy như mình đã hoàn thành được nửa chặng đường, nhưng thực ra bạn đang ở chặng hai của cuộc đua marathon. Những người sáng lập học thuật có thể là công cụ trong chặng đầu tiên, nhưng chính những người sáng lập toàn thời gian mới là người đưa bạn tới đích. Sự phân chia cổ phần sở hữu giữa những người sáng lập phải phản ánh những đóng góp kỳ vọng trong toàn bộ cuộc chạy đường dài này.
Hệ quả của việc này là số cổ phần của bạn trong spin-off sẽ không nhất thiết có bất kỳ mối liên hệ nào với thâm niên của bạn trong nhóm học giả ban đầu. Thường xảy ra trường hợp những người rời khỏi trường là những người trẻ tuổi, trong khi những người lớn tuổi/giảng viên cấp cao vẫn ở lại. Trong trường hợp đó, những người sáng lập rời đi sẽ nhận được nhiều cổ phần hơn so với xếp cũ của họ. Đây có thể là một chuyện khó xử, nhưng nó hoàn toàn hợp lý.
Đàm phán với các văn phòng chuyển giao công nghệ
Nếu bạn định thương mại hóa nghiên cứu được bắt đầu từ một trường đại học, bạn có thể sẽ cần phải thương lượng về quyền sở hữu trí tuệ. Văn phòng chuyển giao công nghệ thường là người đại điện cho trường.
Trước đây, các văn phòng chuyển giao công nghệ thường mang tiếng xấu. Họ nổi tiếng là chậm chạp và quan liêu, cũng như ép buộc các điều khoản khó khăn đối với các công ty khởi nghiệp non trẻ. Nhiều lần những điều khoản mà họ khăng khăng áp dụng đã bóp nghẹt chính những công ty mà họ đang cố gắng tạo ra. Rất ít sự minh bạch trong ngành nên rất khó cho những người sáng lập biết điều khoản nào là công bằng.
May mắn thay, mọi thứ đã trở nên tốt hơn. Hiện tại, có nhiều thông tin hơn cho những người sáng lập. Các nhóm chuyển giao công nghệ tại các trường đại học ở các trung tâm khởi nghiệp lớn như Harvard, MIT và Stanford hiện đưa ra các điều khoản hợp lý cho các công ty khởi nghiệp/spin-off. Một số trường đại học hiện đang sử dụng "thỏa thuận cấp phép nhanh", hoặc thỏa thuận đặt trước yêu cầu ít hoặc không cần đàm phán.
Thường có bốn điều khoản chính trong các thỏa thuận này.
1) Cổ phần sở hữu. Thông thường trường đại học sẽ nhận được cổ phần sở hữu trong spin-off. Điều này là đúng miễn là nó không quá nhiều: thường là 3-5%, trên 10% sẽ gây ra rắc rối.
2) Tiền tác quyền. Điều này có nghĩa là bạn phải trả một tỷ lệ doanh thu hoặc lợi nhuận cho trường đại học. Nếu mức này quá cao, nó có thể ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn và hoạt động của công ty. Lý tưởng nhất là làm cho con số này bằng không. Nếu bạn không thể làm điều đó, hãy cố gắng giữ nó <5% và chấm dứt sau một số năm nhất định và/hoặc bằng một mức thanh toán nhất định.
Các khoản thanh toán quan trọng. Ví dụ, “Bạn phải trả cho trường 250 nghìn USD khi công ty huy động được 10 triệu USD đầu tiên” hoặc “Bạn phải trả cho trường 500 nghìn USD khi bạn đạt tới thử nghiệm lâm sàng Giai đoạn II”. Bởi vì nguồn vốn rất khan hiếm trong những ngày đầu khởi nghiệp, bạn muốn giữ những khoản này càng thấp càng tốt. Bạn sẽ không bao giờ muốn phải chi nhiều hơn một vài phần trăm số tiền bạn huy động được.
Tính độc quyền. Nếu một giấy phép không phải là độc quyền, về mặt lý thuyết, trường đại học có thể cấp phép cùng một IP (tài sản trí tuệ) cho một công ty lớn để cạnh tranh với bạn. Đây có vẻ như là một vấn đề lớn, nhưng thường không phải vậy. Đối với nhiều phát minh, trên thực tế, các công ty khác sẽ không biết cách sử dụng IP và sẽ không coi trọng nó cho đến khi bạn mất nhiều năm để phát triển nó. Có thể là tối ưu khi có giấy phép không độc quyền ban đầu với khả năng làm cho giấy phép đó trở thành độc quyền sau đó, hoặc quyền của điều khoản từ chối đầu tiên.
Hậu spin-off
Bạn có thể tiếp tục cộng tác với phòng thí nghiệm của mình. Họ có thể tạo ra công trình mới mà bạn muốn được cấp phép. Trong một số trường hợp, bạn có thể muốn tiếp tục thực hiện công việc thử nghiệm bằng cách sử dụng các phòng thí nghiệm của trường đại học. Các cơ sở cốt lõi của trường đại học thường được cung cấp cho các công ty, mặc dù chi phí cao hơn. Có thể tiết kiệm rất nhiều tiền bằng cách sử dụng các nguồn tài nguyên của trường đại học thay vì mua các tài nguyên tương đương về mặt thương mại. Điều này hoàn toàn hợp lý, miễn là nó không làm bạn chậm tiến độ và không tạo ra các vấn đề về IP. Ngoài ra, những người sáng lập từ giới học thuật cũng phải có một sự điều chỉnh về tư tưởng. Trong lĩnh vực học thuật, bạn được thưởng cho những khám phá mới và cho bài báo công bố. Trong các công ty khởi nghiệp, không có phần thưởng nào cho những khám phá mới và hầu như cũng chẳng có phần thưởng nào cho các bài công bố. Ở các công ty khởi nghiệp, điều duy nhất mà bạn được khen thưởng là đạt được tiến bộ hữu hình đối với một sản phẩm có giá trị thương mại.
Một điều chỉnh lớn khác là tốc độ. Trong khởi nghiệp, bạn đang chạy đua với thời gian. Nếu bạn không đạt được các mốc quan trọng trước khi nguồn vốn hiện tại của bạn cạn kiệt, thì spin-off của bạn sẽ hết tiền và chết. Do đó, những người sáng lập rời bỏ trường đại học để tham gia chương trình YC thường cho biết họ đã làm được nhiều việc hơn trong đợt đào tạo YC ba tháng so với thời gian họ ở tại trường đại học./.
Theo Bản tin Startup số 33/2022