Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cách mạng Việt Nam
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013), người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã có công lớn xây dựng một đội quân cách mạng hùng mạnh, góp phần cùng toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đánh thắng hai đế quốc hung hãn sừng sỏ hàng đầu thế giới là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, để giành lại độc lập lập dân tộc, thực hiện thống nhất đất nước, gìn giữ non sông gấm vóc, xây đắp nền thái bình muôn thuở và đưa đất nước tiến lên hùng cường.
Ảnh 1: Đồng chí Võ Nguyên Giáp công bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân năm 1944. Ảnh tư liệu lịch sử.
Kế thừa truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: “Thần tượng quân sự của tôi là Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ”.
Trần Hưng Đạo – Trần Quốc Tuấn là vị tướng tài năng nhất của của đời Trần, người viết ra “Dụ chư tỳ tướng hịch văn”, “Binh thư yếu lược”, “Vạn kiếp tông bí truyền thư”. Trong “Dụ chư tỳ tướng hịch văn”, Trần Hưng Đạo viết: “Từ xưa, các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có”. Bài hịch cũng kêu gọi các chư tướng huấn luyện quân sĩ: “Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên; khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ” để chuẩn bị chống giặc. Với vai trò là Tiết chế các đạo quân thủy bộ trong kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai (1285) và thứ ba (1287-1288), Trần Hưng Đạo đã góp sức to lớn cùng nhà Trần chỉ huy quân dân nhà Trần lấy đoản binh chống lại trường trận, dùng kế vườn không nhà trống, kiên cường kháng chiến thắng lợi. Khi cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông thắng lợi, Trần Hưng Đạo đã tổng kết nguyên nhân là do “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”. Sau khi kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ ba thành công, ông về ở trang viên của mình tại Vạn Kiếp (Hải Dương). Năm 1300, Vua Trần Anh Tông hỏi về kế sách giữ nước thì Trần Hưng Đạo đã cho rằng: “nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”.

Ảnh 2: Tư lệnh Việt Nam Giải phóng quân Võ Nguyên Giáp với lực lượng Việt Nam Giải phóng quân ở Hà Nội sau khi giành được chính quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ảnh tư liệu lịch sử.
Năm 1416, Nguyễn Trãi trốn khỏi Đông Quan, nơi bọn giặc Minh quản thúc ông và sau đó dâng Bình Ngô sách cho Lê Lợi ở Lỗi Giang, Thanh Hoá. Trong bài tựa Ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết Bình Ngô sách đã “hiến mưu chước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”. Sau khi xem Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được Lê Lợi cho ngày đêm dự bàn việc quân. Theo Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công, không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh thì “Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế/ Gây binh, kết oán trải hai mươi năm/ Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời” (Bình Ngô Đại Cáo). Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi vì đây là đội quân nhân nghĩa nên được nhân dân cả nước che chở, ủng hộ và không có kẻ thù nào có thể địch lại được. Đó chính là đỉnh cao của binh pháp “đánh vào lòng người” của Nguyễn Trãi. Tiếp đó, việc tổ chức Hội thề Đông Quan (ngày 10/12/1427) để cho Vương Thông và quân xâm lược nhà Minh rút quân về nước chính là vì “Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức/ Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay” (Bình Ngô Đại Cáo).
Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ là người thống nhất đất nước sau 300 năm bị chia cắt với cục diện Nam Triều – Bắc Triều, Đàng Trong – Đàng Ngoài với chiến công đánh bại chúa Nguyễn, chúa Trịnh, quét sạch quân xâm lược Xiêm La, Mãn Thanh ra khỏi đất nước, thu giang sơn về một mối. Lịch sử ghi nhận Hoàng đế Quang Trung chưa từng bị thất trận. Trong tác phẩm “Lịch sử nước ta” (1941), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhận xét Hoàng đế Quang Trung là người “phi thường”, có “chí cả mưu cao”. Với quân số ít hơn và hành quân từ xa nhưng kết quả quân Tây Sơn vẫn chiến thắng địch. Nguyên nhân là do Hoàng đế Quang Trung biết dựa vào nhân dân cùng lối hành quân thần tốc khiến địch bất ngờ, bị động nên đại bại. Nói về điều này, sách Hoàng Lê nhất thống chí viết “Người Tây Sơn hành quân như bay tiến quân rất gấp, xem họ đi lại vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp”. Hoàng đế Quang Trung cũng là vị hoàng đế rất quan tâm đến việc xây dựng đất nước với việc khuyến nông, chú trọng cầu hiền tài... Đối với nước ngoài, Hoàng đế Quang Trung chủ trương mỏ rộng trao đổi buôn bán, đấu tranh buộc nhà Thanh phải mở cửa biên giới để buôn bán với nước ta. Đối với thuyền buôn của các nước tư bản phương Tây, Hoàng đế Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cường quan hệ ngoại thương với nước ta, nhờ vậy, tình hình thương nghiệp (nội thương và ngoại thương) nước ta được phục hưng và phát triển. Bắc cung hoàng hậu Ngọc Hân (con gái của vua Lê Hiển Tông, hoàng hậu của Hoàng đế Quang Trung) đã viết người chồng của mình như sau: “Mà nay áo vải cờ đào/ Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!” (Ai tư vãn).
Là một thầy giáo dạy lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kế thừa những kế sách đánh giặc, giữ nước của tổ tiên ta. Bởi lịch sử của dân tộc ta là lịch sử được viết bởi hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Năm 1988, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận lời làm Chủ tịch danh dự Hội Sử học Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất hay nhắc lại câu nói giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân ta phải biết Sử ta”.
Ảnh 3: Đại tướng Võ Nguyên Giáp chung vui cùng các chiến sĩ trong lễ mừng chiến thắng Điện Biên năm 1954 tổ chức tại chỉ huy sở Mường Phăng. Ảnh tư liệu lịch sử.
Năm 1990, khi trả lời phỏng vấn nhà báo kiêm sử gia người Mỹ Stanley Karnow – phóng viên báo New York Time, tác giả của cuốn sách “Vietnam – a history”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp bày tỏ: “Xin nhớ, tôi là vị tướng chiến đấu vì hòa bình. Nếu không trở thành người lính, có lẽ tôi vẫn là một thầy giáo, có thể Triết hoặc Lịch sử”.
Trong nhiều lần trao đổi với Hội Sử học Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết, chính hiểu biết và tư duy sử học đã giúp Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất nhiều trong việc chỉ huy Quân đội ta trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Xây dựng một đội quân cách mạng hùng mạnh
Quân đội ta được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, ban đầu gồm 34 chiến sỹ do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy với tên gọi Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Đội được trang bị 34 khẩu súng, chia thành 3 tiểu đội, có chi bộ Đảng lãnh đạo, do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng, đồng chí Xích Thắng làm chính trị viên.
Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Nay tuy nó là đội quân nhỏ bé, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó sẽ đi khắp miền Nam Bắc trong suốt cuộc trường chinh giải phóng. Nó là đội quân cách mạng đàn anh. Mong cho nó có những đội quân đàn em…”. Vừa mới ra đời, vào ngày 25/12/1944, Đội đã tập kích diệt đồn Phai Khắc thuộc tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Tiếp đó, ngày 26/12/1944, Đội đánh Đồn Nà Ngần (cách Phai Khắc 15 km về phía Đông Bắc).
Ngày 15/4/1945, Đảng ta hợp nhất Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Chiều 16/8/1945, dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, một đơn vị Việt Nam Giải phóng quân từ Tân Trào (Tuyên Quang) tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên (tỉnh Thái Nguyên), mở màn cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh khen rằng: “Quân đội ta là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng. Mới ra đời, với gậy tầy, súng kíp đã cùng toàn dân đánh Pháp, đánh Nhật, đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công”(1) .
Ảnh 4: Quân ủy Trung ương đang theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Trong ảnh: Đại tướng Võ Nguyên Giáp (người thứ hai từ phải qua). Ảnh tư liệu lịch sử.
Sinh thời, vào năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhận định: “Nhân tướng là người tướng hiểu con người, biết quý con người, biết dùng người và được mọi người yêu quý. Chỉ có những vị tướng như thế mới trăm trận trăm thắng được. Tướng của nhân dân nhất định phải là như thế”. Ngày 20/1/1948, đồng chí Võ Nguyên Giáp, người anh cả của Quân đội ta, được phong quân hàm Đại tướng.
Ngày 22/12/1949, nhân kỷ niệm 5 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cha kính yêu của quân đội ta, đã gửi thư cho bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong thư, Người nêu rõ: “Quân đội ta quen gọi Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là “Anh Cả”. Cách gọi thân ái ấy rất đúng với tinh thần và lịch sử của dân tộc ta”(2) .
Trên cương vị Bí thư Tổng Quân uỷ và sau đó là Bí thư Quân uỷ Trung ương (1946 - 1977), Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam (1946-1975), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1946 -1947; 1948 – 1980); Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có công lớn xây dựng một đội quân cách mạng hùng mạnh, góp phần quyết định cùng toàn dân đánh thắng hai đế quốc là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong giai đoạn này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết nhiều tác phẩm về quân sự như: “Khu giải phóng” (1946), “Đội quân giải phóng” (1947), “Chiến tranh giải phóng và quân đội nhân dân, ba giai đoạn chiến lược” (1950), “Điện Biên Phủ” (1964), “Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng” (1970), “Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân” (1972), “Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc” (1979)…
Ảnh 5: Ngày 2/9/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại lễ duyệt binh trên Quảng trường Ba Đình Hà Nội, mừng Quốc khánh nước Việt Nam thống nhất. Ảnh tư liệu lịch sử.
Nói về Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: “Lực lượng tham gia quân đội là những thanh niên yêu nước, con em của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đại bộ phận là con em công nhân, nông dân và nhân dân lao động. Qua được giáo dục, rèn luyện trong quân đội, họ đã trở thành những cán bộ, chiến sĩ trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội”(3) .
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã biến quân đội ta từ yếu thành mạnh, từ trang bị thô sơ thành trang bị hiện đại. Từ quân số 8 vạn những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, đến cuối năm 1949, bộ đội thường trực đã lên tới 23 vạn. Bên cạnh đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất quan tâm xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đúng như nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ “cái hạt giống bé nhỏ” là Giải phóng quân ngày nào, đã “nảy nở thành cái rừng to lớn và Vệ Quốc quân”(4) .
Trong buổi họp Hội đồng Chính phủ năm 1948, tin tưởng tài cầm quân và trí tuệ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra câu đối dự báo: “Giáp phải giải Pháp”, khẳng định niềm tin tấm lòng yêu mến của Người khi giao trọng trách cho vị tướng trẻ tài danh. Tháng 12/1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao nhiệm vụ chỉ huy trưởng chiến dịch Điện Biên Phủ, trận quyết chiến chiến lược giữa ta và Pháp. Sau khi nghiên cứu kỹ chiến trường Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có quyết định đúng đắn: chuyển từ đánh nhanh, thắng nhanh sang đánh chắc, tiến chắc. Lực lượng tham gia chiến đấu của ta tại chiến dịch Điện Biên Phủ lên đến 55.000 quân, gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351. Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” là minh chứng sinh động về sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội ta. Bởi lần đầu tiên trên thế giới, quân đội của một nước thuộc địa nhỏ ở châu Á đã đánh bại quân đội của một cường quốc châu Âu.

Ảnh 6: Đại tướng Võ Nguyên Giáp với nhân dân Việt Nam. Ảnh tư liệu lịch sử.
Có mặt ở Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, nhà văn Nguyễn Đình Thi từng nhận xét về Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Một vị tổng tư lệnh, đồng thời là người chỉ huy chiến dịch mà viết thư gửi chiến sĩ với những lời thân mật như anh em, quả là điều hiếm thấy trong chiến tranh các nước!”. Xem những người lính như ruột thịt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là “một Tổng tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh” như nhận xét của Thượng tướng Trần Văn Trà.
Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” (1954) gắn liền với sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nói về công tác hậu cần của quân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng đã đúc kết lại: “quân địch không bao giờ tưởng tượng được rằng chúng ta có thể khắc phục được khó khăn này. Bọn đế quốc, bọn phản động không bao giờ đánh giá được được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù”.
Tướng Pháp De Castries, Chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, cay đắng nhận xét: “Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên là không biết Tướng Võ Nguyên Giáp đã tốt nghiệp từ những trường, học viện võ bị cao cấp nào... Quân đội viễn chinh Pháp và các tướng tá Pháp chúng tôi là một đội quân nhà nghề, thiện chiến và trang bị hiện đại. Sự kiện Tướng Giáp thắng chúng tôi ở Điện Biên Phủ làm chúng tôi ngạc nhiên về tài năng của ông ấy. Chúng tôi biết Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trí thức và là một giáo sư đã từng dạy học ở Hà Nội”.
Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị là người đứng đầu Quân đội ta. Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn chú trọng việc xây dựng Quân đội ta tiến lên chính quy, hiện đại, xây dựng các Quân chủng Phòng không - Không quân, Hải quân, Binh chủng Đặc công. Đặc biệt, gần cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề xuất ra việc khẩn trương thành lập các quân đoàn chủ lực (Quân đoàn 1, 2, 3 và 4) để nhân sức mạnh tổng hợp của các sư đoàn, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, thực hiện những trận đánh tiêu diệt lớn, góp phần quyết định thắng lợi Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ảnh 7: Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh tư liệu lịch sử.
Đánh giá về sự thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược tại Việt Nam, Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ, xuất bản năm 1993 viết: “Tài thao lược của Tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao... Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử”.
Từ năm 1980, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1955-1991), Đại tướng Võ Nguyên Giáp phụ trách nhiều vấn đề kinh tế - xã hội trong giai đoạn đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã dự thảo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên (1980) và Dự thảo chiến lược kinh tế và quốc phòng biển (1985)... Trong công cuộc đổi mới (từ năm 1986), với mong muốn đất nước phát triển, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tham mưu, đóng góp nhiều ý kiến rất quan trọng cho Đảng và Nhà nước.
Nguyễn Văn Toàn