Bác Hồ luôn nhớ về xứ Huế
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) có mười năm sinh sống và học tập tại Huế, từ 1895-1901 và 1906-1909. Bởi vậy, những ký ức về Huế và Tết Huế của Người rất sâu đậm.
Ảnh 1: Tượng người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành tại trường Quốc học Huế. Ảnh: internet.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1906-2000) đã nhận định: “Thời gian ở Huế là thời gian Nguyễn Tất Thành lớn lên và bắt đầu đi học. Những năm tháng đó là thời gian rất quan trọng đối với sự hình thành nên con người Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, thời gian hình thành nên một con người lạ lùng, với những ý tưởng lạ lùng, đưa đến những thành tựu lạ lùng”.
Tuổi niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn bó mật thiết với Huế trong sáu năm (1895-1901). Ngày ấy gia đình Người đã sống tại ngôi nhà 112 Mai Thúc Loan, mà vốn trước đó là một trại lính của Nha Hộ thành triều Nguyễn bị bỏ phế sau sự kiện thất thủ Kinh đô 1885. Trong hai năm tiếp theo (1898 – 1901), Người và anh trai là Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950) cũng đã được cha là cụ Nguyễn Sinh Sắc (1962-1929) đưa về sống và học tập tại ngôi nhà của ông Nguyễn Sỹ Độ ở làng Dương Nỗ (thành phố Huế).
Lần thứ hai đến Huế, Người cùng gia đình sống tại ngôi nhà Dãy Trại (nay là 47 Mai Thúc Loan) trong bốn năm (1906-1909). Người đã học tại trường tiểu học Pháp - Việt Đông Ba (1906-1908), rồi vào học trường Quốc học Huế (1908-1909).
Tại Trường Quốc học Huế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được theo học thầy Lê Văn Miến (1874-1943). Thầy Lê Văn Miến Ông quê ở làng Ông La, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông từng học Trường thuộc địa ở Paris (1888-1892). Viên Tổng trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại, khi đến thăm trường đã trực tiếp hỏi Lê Văn Miến: “Anh có yêu nước Pháp không?”. Ông đã trả lời: “Với văn hóa Pháp tôi rất thích, còn việc người Pháp đi xâm lược nước khác, tôi không chịu”. Sau đó, ông tiếp tục học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Paris (1892-1895). Về nước, ông không chịu làm quan cho Pháp mà chỉ thích đi dạy. Từ năm 1907 đến 1913, ông làm giáo viên dạy Pháp văn và mỹ thuật ở Trường Quốc học Huế.
Trong một dịp Lê Văn Miến vào cung vẽ chân dung cho vị vua yêu nước Thành Thái (1879-1954) và do nhà vua yêu cầu, ông đã vẽ cho vua một bản sơ đồ làm súng trường để phục vụ việc làm vũ khí chống Pháp. Vua Thành Thái cũng đang đã bí mật chiêu nạp được 4 đội nữ binh (mỗi đội 50 người) để mưu tính nổi dậy chống Pháp. Nhưng sự việc cuối cùng bị lộ khi tên Thượng thư Bộ Lại và “Cơ mật viện” báo cho tên Tòa Khâm sứ Pháp. Ngày 12/9/1907, vua Thành Thái bị thực dân Pháp đưa đi quản thúc ở Vũng Tàu. Đến nǎm 1916, vua Thành Thái bị đày ra đảo Réunion cùng với con trai của mình là vua Duy Tân (1900-1945), cũng là một vị vua yêu nước chống Pháp.
Giáo sư Lê Thước (1891-1975), một học trò của thầy Miến nhớ lại: “Cụ Miến không chỉ dạy chữ, dạy bài học về lòng yêu nước, về nghĩa khí của một kẻ sĩ, mà cụ Miến còn là tấm gương cho bao thế hệ học trò trong việc hình thành nhân cách của họ”.
Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Trường Quốc học Huế đi vào Nam tìm đường cứu nước, nhà văn Sơn Tùng (1928-2021) miêu tả trong tác phẩm “Búp sen xanh”, thầy Miến đến chia sẻ tâm sự với người học trò yêu quý: “Con hãy đi theo tiếng gọi của lòng con”.
Tháng 1/1918, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến đảo Réunion thăm vua Thành Thái đang bị thực dân Pháp an trí tại đây. Nhớ lại việc này, năm 1947, khi trả lời các vị trong hoàng tộc, vua Thành Thái đã nói: “Từ hồi ấy tôi đã thấy cụ Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc nhiệt thành và sáng suốt”[1].
Bởi thế, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, gặp được những người dân xứ Huế cũng như gặp được những nét gần gũi, thân thương nhất của quê hương đất nước vì 30 năm sau đó (1911-1941) Người đã rời quê hương đất nước để vượt qua 3 đại dương, 4 châu lục, 28 quốc gia nhằm tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sau khi về nước lãnh đạo cách mạng vào mùa Xuân năm 1941, vì sự nghiệp chung và công việc bận rộn của Chủ tịch nước và sau đó là tình hình đất nước bị chia cắt làm hai miền, Người cũng không có điều kiện về lại Huế dù mảnh đất và con người xứ Huế vẫn luôn ở trong trái tim Người.
Trên cương vị là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đi chúc Tết những gia đình gốc Huế. Vào đêm Ba mươi Tết Đinh Dậu năm 1957, Người đã đến thăm gia đình cụ Nguyễn Thị Khánh quê ở tỉnh Thừa Thiên Huế, có sáu con đi bộ đội, trong đó có liệt sĩ Nguyễn Khắc Vĩ hy sinh trên chiến trường Điện Biên Phủ. Vào đêm Ba mươi Tết Tân Sửu năm 1961, Người đi thăm và chúc Tết gia đình hai vị bác sĩ gốc Huế là Hồ Đắc Di (1900-1984) và Tôn Thất Tùng (1912-1982).
Ảnh 2: Tiểu đội “11 cô gái sông Hương” trong Tết Mậu Thân năm 1968. Ảnh tư liệu lịch sử.
Tết Mậu Thân năm 1968, tiểu đội “11 cô gái sông Hương” đã tiêu diệt nhiều tên địch. Chiến công của tiểu đội “11 cô gái sông Hương” đã góp phần cùng quân và dân ta làm chủ thành phố Huế trong 26 ngày đêm. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng tiểu đội “11 cô gái sông Hương” bài thơ khen ngợi: “Dõng dạc trong tay khẩu súng trường/ Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường/ Bác khen các cháu dân quân gái/ Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương…”.
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Kan Lịch (sinh năm 1943), người Pa Cô ở huyện A Lưới (Huế) là người có vinh dự 7 lần được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà bày tỏ: “Mỗi lần gặp Bác là một kỷ niệm lớn khi được Bác ân cần thăm hỏi, động viên, dặn dò nhiều điều để hoạt động cách mạng được tốt hơn”.

Ảnh 3: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Kan Lịch (đội mũ, bên phải) ở huyện A Lưới (Huế) và đồng đội cùng những giây phút hạnh phúc được ở bên Bác. Ảnh tư liệu lịch sử.
Trong ký ức của bà Nguyễn Đình Chi (1909-1997), Phó Chủ tịch Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình thành phố Huế, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhớ về Huế. Ngày 13/7/1968, bà Nguyễn Đình Chi cùng đoàn đại diện cho Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình thành phố Huế được vinh dự ra Hà Nội và đến Phủ Chủ tịch gặp Người.
Sau buổi gặp thân mật đó, bà Nguyễn Đình Chi nhớ lại: Chủ tịch Hồ Chí Minh thường điện thoại cho đồng chí Lê Toàn Thư (1921-2001), Chủ nhiệm Ban thống nhất, hỏi về tình ăn, ở của chúng tôi ở thủ đô. Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi: “Đã có người nấu ăn cho đoàn Huế chưa? Người nấu ăn phải biết khẩu vị của người Huế đó nhé”. Đến lúc trời sắp trở lạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại gọi điện thoại hỏi: “Đoàn Huế có đủ đồ ấm chưa? Trong Huế không lạnh như ngoài Bắc đâu!”.
Những món mứt Huế là ký ức đẹp của Người về những ngày Tết ở Huế thuở còn niên thiếu. Bà Nguyễn Đình Chi nhớ lại: “… đoàn chúng tôi được Bác cho vào Phủ Chủ tịch chúc Tết Bác, chúng tôi biết Bác đã từng ở Huế nhiều năm và thích dùng những món Huế nhân ngày Tết... Vào khoảng 10 giờ 30 ngày 28 Tết năm ấy (15/2/1969), Đoàn liên minh chúng tôi vào chúc Tết Bác. Chúng tôi kính dâng bốn thẩu mứt, mứt bí, mứt cam, mứt chanh và mứt cam quất... Bác rất vui vẻ mời mọi người cùng ăn”.
Ngay trong tháng 9/1969, sau khi được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người cha kính yêu của dân tộc Việt Nam qua đời, 5 tộc người dân tộc thiểu số bao gồm Cơ Tu, Tà Ôi, Pa Cô, Pa Hy, Bru – Vân Kiều ở miền Tây tỉnh Thừa Thiên - Huế đã quyết định mang họ Bác Hồ. Trong bài thơ “Bác ơi!” viết vào ngày 6/9/1969, nhà thơ xứ Huế Tố Hữu đã xúc động dâng trào: “Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà/ Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha!”.
Bà Phạm Thị Thu Hồng, sinh năm 1941, quê quán xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, kể lại: “Năm 1969, Đoàn văn công quân giải phóng Trị Thiên - Huế chúng tôi được ra an dưỡng ở miền Bắc… Lúc này Bác đã ốm nặng, nghe tin đoàn chúng tôi ra, nhưng đi an dưỡng ở Hạ Long chưa về Bác đã gọi điện cho các đồng chí Trung ương dặn phải chăm sóc Đoàn cẩn thận từ khâu ăn uống, thuốc men, áo quần... Chúng tôi vô cùng cảm động khi biết rằng Bác dù đang ốm vẫn không nguôi lo nghĩ việc nước, vẫn quan tâm chăm lo đến đời sống và sinh hoạt của tất cả mọi người, trong đó có đoàn văn công quân giải phóng chúng tôi. Chúng tôi an dưỡng ở Hạ Long được khoảng mười ngày thì được tin Bác mất, cả Đoàn chúng tôi lặng người. Tin Bác qua đời đối với chúng tôi quá đột ngột. Đoàn chúng tôi được về Hà Nội dự lễ tang Bác. Anh chị em trong Đoàn nhiều người quá thương tiếc Bác đã ngất đi. Riêng tôi lòng đau như cắt, hình ảnh của Bác thân thương, gần gũi hiện về trước mắt tôi”.
Biến muôn vàn đau thương thành quyết tâm cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Huế đã cùng với quân dân cả nước chiến đấu anh dũng, kiên cường, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Huế đã đạt được các danh hiệu cao quý như “Thành phố Văn hóa của ASEAN” (2014 - 2015), “Thành phố bền vững về môi trường ASEAN” (2014), “Thành phố Xanh quốc gia” (2016), “Thành phố Du lịch sạch ASEAN” (2018-2020, 2020-2022, 20024-2026).
Ngày nay, thực hiện những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, tỉnh Thừa Thiên Huế đang phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trên tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản cố đô và bản sắc văn hoá Huế, với đặc trưng văn hoá, di sản, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường và thông minh.
Nguyễn Văn Toàn